VIỆT NAM SỬ CA (LỤC BÁT SỬ)
Với Việt Nam lục bát sử, nữ tác giả đa tài Ngọc Thiên Hoa lại đem đến cho độc giả một bất ngờ thú vị. Bất ngờ vì lâu lắm rồi mới lại có người để mắt tới Sử ca, bằng một tác phẩm đồ sộ vào loại bậc nhất thuộc thể loại này. Không kể đến những tác phẩm diễn ca từng đoạn lịch sử hay từng nhân vật, mà hãy đem so sánh với Đại Nam quốc sử diễn ca, một công trình quy mô của rất nhiều người, qua nhiều đời để cuối cùng được cho là của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, xuất bản bởi hiệu Trí Trung Đường tại Hà Nội năm 1870 cũng chỉ với 2054 câu lục bát. Trong khi đó Việt Nam lục bát sử, của riêng Ngọc Thiên Hoa, có độ dài tới gần 5000 câu lục bát. Biên niên sử trong Đại Nam quốc sử diễn ca từ thời Hồng Bàng đến hết đời vua Lê Chiêu Thống. Trong khi đó Việt Nam lục bát sử cũng từ thời Hồng Bàng kéo dài cho đến khi thực dân Pháp hoàn thành việc biến toàn cõi Việt Nam thành thuộc địa của họ những năm đầu thế kỷ XX, tức là dài hơn khoảng gần 300 năm. Nhưng dài ngắn chưa phải là điều đáng nói. Bám sát vào nguồn sử liệu là cuốn Việt Nam sử lược (VNSL) của Trần Trọng Kim, điểm đáng nói nhất của Việt Nam lục bát sửchưa phải là hàng ngàn câu lục câu bát rất nhuần nhuyễn về vần điệu, mà trước hết là ở khả năng tải theo các sự kiện lịch sử của những câu thơ có vần rất dễ nhớ ấy. Cũng nhằm diễn ca lịch sử, nhưng khi đọc Đại Nam quốc sử diễn ca người ta thấy giá trị sử học quá mờ nhạt so với giá trị văn học. Các sự kiện trong đó – có thể do mục đích sáng tác của các tác giả – chỉ là cái cớ. Vì thế nhiều khi chúng bị kéo dãn hoặc dàn mỏng ra, đóng vai trò thứ yếu. Chúng ta không bàn điều đó là hay hay dở, nhưng với mục đích truyền bá kiến thức lịch sử bằng văn học (cụ thể là bằng thơ lục bát) thì có thể khẳng định ngay rằng Việt Nam lục bát sử hiệu quả hơn, tiện dụng hơn cho người muốn nhớ sử. Tức là văn học đựơc sử dụng như một phương tiện để tải lịch sử. Có thể vì thế mà trong Việt Nam lục bát sử các sự kiện lịch sử được dồn nén, cô đọng tới mức tối đa, để trong một câu 6 hay 8 chữ, cung cấp được nhiều tư liệu nhất – và đó cũng là điểm độc đáo thú vị của cuốn sách. Chẳng hạn một đoạn rất dài trong VNSL như sau: Nhà tiền Lý (544-602): 1 – Lý Nam Đế; 2 – Triệu Việt Vương; 3 – Hậu Lý Nam Đế.
NHÀ TIỀN LÝ 前 李 (544-602)
Giao Châu thóc chín lưng chừng Thân trâu, kiếp ngựa vang lừng trống khua. Ngoài biên, giặc Tống hơn thua Bên trong, Lâm Ấp vào mùa phá ranh. Bên Tàu, lưỡng thổ phân tranh Tề vừa phế Tống, Lương thanh toán Tề. Tham tàn thái thú, người ghê Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian.
“Vạn Xuân” thoát cảnh lầm than “Thái bình thiên đức”, xua tan bóng tà. Bình minh chiếu sáng sơn hà Thanh bình tự chủ như là đến phiên!
Nghe qua, Lương Đế đảo điên Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền. Thua đi, thắng lại truân chuyên Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương. Còn đây là một đoạn khác trong VNSL: Lịch Triều Lược Kỷ: 1. Nam-triều Bắc triều; 2. Trịnh Nguyễn phân tranh “Nước Nam ta từ khi Ngô Vương Quyền đánh đuổi được quân Nam-Hán, vua Đinh Tiên-Hoàng dẹp yên được loạn Thập-nhị Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được non 600 năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc chính-trị đổ-nát, cho nên trong nước loạn-lạc, nhà Mạc nhân dịp mà làm sự thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công-đức của vua Thái-tổ và vua Thánh-tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê trung- hưng lên ở phía nam, lập ra một Triều-đình riêng ở vùng Thanh-hóa, nghệ- an để chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời. Đến khi nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang-sơn lại thống-nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra lòng ghen-ghét, gây nên mối thù-oán, rồi mỗi họ hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một Xứ để làm cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là một thời-đại riêng trong lịch-sử nước ta vậy. Nhà Hậu-Lê từ khi trung-hưng lên, con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh. Còn ở phía nam thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hãy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những công-việc về thời bấy giờ thì ta sẽ bàn riêng rẽ từng mục cho rõ-ràng” (tusach.vietnhim.com). Khi chuyển sang Việt Nam Lục Bát sử của Ngọc Thiên Hoa, trở thành: NHÀ HẬU LÊ 黎 後 Thời phân tranh (1533-1788) Chương I: Lịch triều lược kỷ. Nước Nam một cõi biển Đông Ngô Vương đuổi Hán uy phong lẫy lừng. Tiên Hoàng dẹp loạn sứ quân “Quan quang thượng quốc” vào chừng sáu trăm.
Hậu triều Lê quá hoang dâm Để cho họ Mạc ngấm ngầm cướp ngôi. Phục hưng Lê cũ xa rồi Lê Trung Hưng mới chia đôi nước nhà. Lẽ dĩ nhiên mỗi loại hình có ưu thế và hạn chế riêng của nó, không thể cái này thay thế cái kia. Nhưng chỉ riêng việc nỗ lực làm cho người đọc hào hứng học lịch sử, khơi gợi ở họ những cảm hứng và nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về quá khứ cũng đủ thấy tấm lòng của tác giả đối với lịch sử nước nhà, với thế hệ trẻ nhất là khi dạy và học lịch sử đang trở thành vấn nạn của hệ thống nhà trường phổ thông hiện nay. Một điểm đáng nói khác là tác giả cho người đọc hình dung bao quát về một đất nước Việt Nam ở tất cả các yếu tố tạo ra nó, chứ không chỉ ở việc liệt kê các sự kiện lịch sử như trong phần lớn tác phẩm diễn ca khác, kể cả Đại Nam quốc sử diễn ca . Tuy nhiên, Việt Nam lục bát sử không chỉ có vậy. Chẳng hạn trong suốt gần 5000 câu, ta luôn phải sống với nhiều trạng thái tình cảm: Niềm tự hào, nỗi thán phục, sự phán xét nghiêm khắc, niềm thích thú hoặc buồn đau cũng như những mỉa mai cay đắng…tương ứng với các sự kiện lịch sử hay cuộc đời của những nhân vật. Tức là tác giả đóng luôn cả vai trò “Thái sử công” bằng vị thế của một thi sĩ! Và những lời bình ấy thường lại là những gì khiến độc giả thấy thú vị nhất vì tính sắc sảo và hóm hỉnh. Nó cho thấy tác giả rất giỏi làm “sống lại thời cuộc” cũng như khả năng cao tay khi sử dụng ngôn ngữ đầy biến hoá. Nhưng trong khuôn khổ một bài giới thiệu, chúng tôi không thể lạm dụng làm mất thì giờ quý báu của bạn đọc. Vả lại chính bạn đọc sẽ nhanh chóng kiểm nghiệm điều đó. Xin cảm ơn tác giả và xin vui mừng giới thiệu Việt Nam lục bát sử – mà theo chúng tôi là một cuốn sách quý – với xa gần. Ban biên tập VIỆT NAM LỤC BÁT SỬ LỜI MỞ: Đây lời sông núi, hồn dân tộc Bài học muôn đời nhắc cháu con. Dòng thời gian trôi qua. Bánh xe lịch sử đã, đang và sẽ mãi quay trong đẫm đầy nước mắt lúc chia cắt hay xiết đổi vui mừng khi xum họp. Ai đã từng được sinh ra và lớn lên trên đất nước hình chữ S, dù đi đâu hay ở nơi phương trời xa xôi nào đó thì trong mình vẫn chảy chung dòng máu Lạc Hồng. Lịch sử là nhân chứng. Lịch sử là những dòng ngậm ngùi… Mỗi thời đại đi qua, người ta có cách nhìn, cách đánh giá khác nhau về những giai đoạn lịch sử. Lịch sử Việt Nam thấm đầy xương máu anh em, cho ta xót xa cảnh “nhồi da xáo thịt”, “cốt nhục tương tàn”. Bên cạnh đó, lịch sử Việt Nam là những trang hào hùng, bất khuất chống ngoại xâm dưới bất cứ hình thức nào, phương diện nào. Lịch sử Việt Nam là bản trường ca bất tận về dân tộc Việt Nam hơn bốn ngàn rưỡi năm. Những gì thuộc về lịch sử sẽ mãi mãi bất tử. “Việt Nam sử lược” (VNSL) được Trần Trọng Kim (TTK) viết bằng chữ quốc ngữ năm 1919 (Nxb Trung Tâm Học Liệu – 1921, Nxb VHTT – 1999) là một trong hiếm cuốn chính sử đã dày công ghi lại tiến trình lịch sử trong 5 giai đoạn từ sơ khai – thời Hồng Bàng dựng nước 2879 trước Tây lịch đến khi thực dân Pháp toàn quyền bảo hộ Việt Nam năm 1902. Với cuốn sử này, TTK đã tham khảo tới 26 cuốn sử khác bằng chữ Nho, chữ Quốc ngữ và sách tiếng Pháp. Trong các chính sử chữ Hán, có “Đại Nam thực lục tiền biên” và “Đại Nam thục lục chính biên” là hai cuốn chính sử tạm cho là tương đối chân xác nhất về lịch sử Việt Nam. Vì thế, nhận định của nhà xuất bản VHTT về VNSL của ông: “cuốn sách được viết dưới chế độ thực dân phong kiến nửa thuộc địa nên không khỏi có đôi điều hạn chế về cách nhìn nhận cũng như thiếu sót về mặt sử liệu” (tr 5, sđd) là chưa chính xác. TTK đã bày tỏ rõ cách nhìn nhận lịch sử của mình: “Thời đại nào, nhân vật ấy và tư tưởng ấy” (sđd tr 11). Do đó, chúng ta không thể lấy tiêu chuẩn thời đại nay để đánh giá chuẩn mực giá trị của thời đại trước. Mục đích viết VNSL của tác giả TTK cũng khá rõ ràng: “ta hãy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn. Ấy là mục đích của soạn giả…”(sđd tr 12). Sau khi tham khảo các cuốn sử khác, chúng ta có thể nhận thấy cách viết sử của TTK tương đối khách quan với nguồn tham thảo sử liệu phong phú được thể hiện qua kiến thức sử học và năng lực ngoại ngữ của tác giả có thừa. Từ lối văn xuôi của TTK, tôi mạn phép chuyển sang “Lục bát” là thể thơ truyền thống của văn học Việt Nam và có ít lời bình khi cần thiết. Quá trình chuyển thể từ sách sử phải bảo đảm theo tình tự, ngày tháng năm, chi tiết và cách hành văn của tác giả nên việc thể hiện văn phong lục bát là một sự mạo hiểm. Chúng ta thừa biết rằng: Thể “Lục bát” không đơn giản. Nó khó gieo vần chính suốt toàn bài. Vì thế, người ta phải vay mượn vần thông hay khi bí từ phải gieo lạc vận. Vay mượn vần thông như thế nào? Lượng tải lạc vận bao nhiêu? Hai ẩn số đó vẫn là bài toán văn học hóc búa cho những người làm lục bát. Nói về thể “Lục bát“, giáo sư Dương Quảng Hàm trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” (Nxb HNV – 2002) trang 137 – 138 có nhắc tới luật: bb/tt/bb bb/tt/bb/tb và lệ (nhất tam ngũ bất luật, nhị tứ lục phân minh): bb/tt/bb bb/tt/bb/tb Chữ in nghiêng (1-3-5) cho phép theo lệ. Như vậy, người làm lục bát đúng luật và thể thì bắt buộc chữ thứ 7 trong câu 8 phải là vần trắc (t) chứ không phải là (b) như chúng ta đã thấy trong lục bát ngày xưa và hiện nay có thể là đã sai luật. Trong quá trình bám nguyên tác cuốn VNSL để chuyển thể, Ngọc Thiên Hoa dù đã gieo toàn bộ bằng vần chính, có khi phải vay mượn một vài Vần thông, cố gắng không phạm vào Lạc vận – Cưỡng vận nhưng không tránh khỏi gieo trật vần ở chữ thứ 7 của câu 8. Văn học không của riêng ai. Chúng ta thành tâm góp ý để bổ sung kiến thức cho nhau là một hành động chính nhân và một việc làm thiêng liêng. Xin trân trọng cám ơn cố tác giả Trần Trọng Kim và chân thành cám ơn sự khích lệ bằng tấm lòng yêu thương dân tộc của độc giả yêu thích Văn học – Sử Việt Nam dành cho người mạn phép chuyển thể./. Tháng 9/24/2004 |
VIỆT NAM L ỤC B ÁT SỬ NƯỚC VIỆT NAM (越 南)
Hồng Bàng lập nước Văn Lang Tượng Quận gọi bởi nhà Tần Sang đời nhà Lý Thánh Tông Bắc Nam tranh chấp tiêu điều
Việt Nam chữ S quanh co Đông – Nam hai hướng đi qua Miền Tây giáp giới Ai Lao
Bắc – Trung – Nam cả ba miền Trời sinh núi cặp, người đôi Miền trong, ruộng nước khai thông
Giống nòi chung một tình thương.
Ta, Tàu, Tây đã thống kê: Cội nguồn trên cũng là… điêu Trăm năm cũng ánh trăng rằm
Da vàng trọn nghĩa phu thê Đàn bà mẫu mực, trung can Dầu rằng vóc sắc khác nhau
Rồng trong giếng cạn nào cam
Cha ông lập nước đến giờ
Đế Minh tuần thú Hồ Nam Lộc Tục xưng Kinh Dương Vương
(2879 – 258 trước Tây Lịch) Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
Giặc Ân thua bởi nhiễu nhương Sử xanh chép lại mà thương: Chương II
Thục Phán lấy đất, chiếm người
Phong ba, nắng gió ai lường
Ai xui Thục chiếm Văn Lang
Loa thành nhà Thục thật, hư: Xót nàng duyên gãy mà thương Chương III
Mỗi người thủ lãnh một phần
Tam công, nhà Hạ ra khung: Đại tư đồ giữ thương, công Tam công một chức đặt ra
Đời Thái Tổ có năm hình
Năm người, nhập ngũ binh ngay
Mười phần ruộng lấy một mươi Ân, Chu dùng phép Tỉnh điền Lý Khôi, Chiến quốc, luật ban:
Vua, quan, nếu có sinh con
Đời Chu có lắm danh ngôn
Công, thương, nông, sĩ đã phân Chương IV
Tránh cho máu chảy đầu rơi
Vũ Vương lập nghiệp bên ta Kiêu căng, Vương mới coi thường
Khi Cao Tổ khuất ngôi rồng Xưng làm Hoàng Đế lại gan
Hán Văn Đế gởi thư riêng “Trẫm nay mọi việc đã tường Lời thư tử tế hiền nhân
Văn Vương trí nhược, tâm nhu Mời chầu, Trang Trợ phụng thiên
Nghe Vũ mất, Anh Tề về
Minh Vương khi đã mất rồi Dụ con dâng nước, bán bờ Người Nam đánh Hán kiên cường Quyển II
Vũ Đế chiếm Đại Việt xong Thạch Đái đóng phủ Long Yên
Thái thú Giao Chỉ: Tích Quang Chương II
Thời kỳ Bắc thuộc long đong Tô Định bạo ngược khôn lường Con dòng Lạc tướng Mê Linh Xưng vua, lừng lẫy ai bì
Tân Sửu, Quang Vũ lệnh truyền Hai bên giáp chiến tử sinh Sông xanh nước chảy mênh mông Ba năm một cõi sơn hà Qúy Mão mồng sáu tháng hai Chương III
Nhà Đông Hán trị dân ta
Nhân tài bị bỏ, còn đâu Nhìn người chớ có khinh thường
Người nước Lỗ, đổ mậu tài Đình hầu thọ sắc phong rồi
Đông Ngô thế mạnh hùng cường Bính Ngọ, Sĩ Nhiếp quy tiên Đái Lương cùng bọn Trần Thì Bấy giờ, Ngô chủ tính khôn
Giao Châu, Giao Chỉ tương phân Anh em bảo bọc cho nhau Non nhà lửa bỏng, dầu sôi Theo mây về cõi tiêu diêu
Nhà Ngô chặt cội, đẵng cành Dân gian loạn lạc, mới bàn III. NHÀ TẤN (265-420)
Thiên hạ, nhà Tấn đã thâu Thiên tai tại thượng vô tình
Bên trong chính sự bất bình Canh Thân, Tuệ Độ đã làm Khi Phạm Dương Mại chiếm ngôi
Canh Thân, Lưu Dụ mưu sâu
Nói về họ Phạm ngấm ngầm Tống triều nào há chịu đâu Đàn Hòa Chi vội tóm thâu
Kỷ Mùi, nhà Tống mất ngôi Chương IV
Giao Châu thóc chín lưng chừng Bên Tàu, lưỡng thổ phân tranh Vạn Xuân thoát cảnh lầm than Nghe qua, Lương Đế đảo điên
Triệu Việt Vương – Dạ Trạch Vương
Tranh ngôi, Phật Tử ra tay Chương V
Việc đánh Lâm Ấp:
Mậu Dần, Tùy mất bởi Đường
Nhà Tùy tiếp đến nhà Đường
Nhằm trừ giặc cướp nương dâu Xưng vua Hắc Đế gây uy
Tân Tỵ có quân Đồ Bà
Họ Quang kia thật là thâm Phùng Hưng vốn ở làng Cam
Phùng An nhút nhát cầu an
Tư thù, Mán tộc và Mường
Công việc của Cao Biền:
Vua mà chính trực công tư III. ĐỜI NGŨ QÚY (907-959)
Bên Tàu, Ngũ Quý phân vương:
Khúc Thừa Dụ (906-907)
Làm quan chỉ độ tròn năm
Khúc Thừa Mỹ, nối nghiệp cha
(931-938) Ai ngờ nội phản, tham sinh Ngô Quyền khởi nghiệp Đường Lâm Hoằng Tháo: Thái tử bắc phương Ngô Quyền đức trí cương – nhu Chương VI
Theo dòng lịch sử tính toan
Theo gương “trung hiếu” làm đầu Làm người trọng nghĩa, khinh danh Nho gia vất vả trường sanh Đạo nào mà có chủ trương:
”Vô tri, điềm tỉnh”, trừ tham Lý Đan nước Sở phát sinh Trương Đạo Lăng, quả gặp thời Tử – Sinh vốn đã từ lâu
Đời người đầy ải khổ đau Đức Thích Ca đã không màng Bà-La-Môn, gốc Thích Ca Nhà Đông Hán có Huệ Sinh Tiền Lê, nhà Lý, nhà Đinh
Nho, Phật, Lão phát triển nhanh
Ngô Quyền nối tiếp ngôi trời
Tam Kha em vợ cướp quyền
Xương Văn, em ruột thay lời Anh em dựng lại cơ đồ
Thổ hào Trần Lãm, Kiều Công Chương II
Họ Đinh – thứ sử Giao Châu Thương người trí dũng, hùng anh Bộ Lĩnh khí chất cao sang Bên Tàu, họ Triệu tham lam Ngoài yên, triều cống kẻ kiêu Quân binh ngũ hạng mà phân: Sử rằng: Đỗ Thích tính toan… Đời người dễ được trăm năm Nam Việt Vương – Liễn, một thời Tội đồ Đỗ Thích trước sau
Nước nguy, vua bé, mập mờ Ai người dựng tích mà truyền Vừa phiên Tống đế thừa cơ Đinh Triều thế phổ cung son Chương III
Lê Hoàn ở tỉnh Hà Nam
Lưu Trừng thống lĩnh thuỷ binh Non nhà thắng lợi vinh quang
Đại Hành đối Tống đã thành
Sửa sang trong nước, triều ca Năm Ất Tỵ, vua băng hà
Đăng cơ, thái tử vạ rình
Lê Ngọa Triều quả vua… điên Đẳng cây, người té khơi khơi. Vua nòi “khát máu, tanh dòng” Tiền Lê truyền dẫn ba đời Chương IV
Niên hiệu: Thuận Thiên 順 天
Công Uẩn được chọn lên ngôi Khánh Văn nuôi dưỡng, đỡ đần
Thái Tổ mộng thấy điềm sang:
Đời Lý, đạo Phật đã thông
Nhận phong Giao Chỉ Quận Vương Công Uẩn thọ đến năm lăm
Niên hiệu: Thiên Thành 天 成
Hoàng triều phải cảnh tai ương Đông Chinh, Dực Thánh cùng đường
Nhà vua trước dẹp giặc Nùng
Trí Cao chẳng chịu yên phần
Chiêm Thành quấy nhiễu từ lâu Thái Tông trông thấy động lòng
Chăm lo muôn việc ngoài trong Hăm bảy năm đã trị dân III. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072)
Thái Tông tiên đế di ngôn
Gương hiền hiếu độ làm con Hậu tiền, tả hữu phân hai Ngài qua cái tuổi năm mươi
Niên hiệu: Thái Ninh 太 寧
Năm Tý được lợi chữ Nhâm Ỷ Lan, mẹ được buông mành
Vua cho mở cuộc thi văn
Quảng Nam: “Nước Nam là của người Nam” Thường Kiệt danh sáng rạng ngời Dân tình hưởng phút ấm no
Niên hiệu: Thiên Thuận 天 順 . Cháu vua đã được làm vua Nương vườn, lính đổi phiên làm
Niên hiệu: Thiệu Minh 紹 明
Phụ chính vua nhỏ lên ba Bá quan mưu sự, đáng thương
Hiến Thành hữu dũng lược thao
Thái Nguyên, Thân Lợi loạn trào
Giáp Thân, nhà Tống sắc phong
Thái hậu đã muốn đổi người Trung thành chẳng tính hơn thua
Tiếc rằng vua ở ngôi cao Hai mươi lăm tuổi, xế mùa VIII. LÝ HUỆ TÔNG (1211-1225)
Thái tử Sam nối tông đường Họ Trần có một chút ân
Thái hậu tìm cách giết đi Vua thân mắc phải cơn điên
Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo Huệ Tông quý mến thiên kim Hai trăm mười chín năm ròng Thi đua giữ nước chín đời Chương VI |
Chương VI NHÀ TRẦN (1275-1400) Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)
Niên hiệu: Kiến Trung 建 中
Thủ Độ bày vẽ mông lung Trần Cảnh tám tuổi hiền lương Huệ Tông hiểu ý mười mươi Làm cho họ Lý điêu linh Cướp về người vợ có mang Hại ngầm họ Lý cho nư
Xem ra… Thủ Độ cũng… tài
”Quan là quan”, lệ đã thành
Học hành chẳng chút lãng xao Trạng nguyên, Bãng nhỡn, Thám hoa
Gia hình thấy cũng hơi cao
Nhà Trần lo việc sửa sang Võ ngoại có Ngự sứ quân
Quân – Thần nghĩa chẳng mấy khô
Gìn sông, giữ núi An Nam
Mông Cổ hiếu chiến, gian manh Đất người chiếm lấy, vô tim Thái tổ băng giá đến phiên. Mông con nhà chú Quí Do Đồng liêu Hạt Lỗ, tay cừ Đánh khắp Nam, Bắc, Đông, Tây Vua, quan Trần quyết hai đàng: Binh phân, thế yếu tiêu điều Cùng đường mỏi mệt, la lê Bắt vua Trần đến Mông triều Chuyên cần thế sự, Thái Tông
Niên hiệu: Thiệu Long 紹 隆
Non sông nở đóa hoa tươi Anh em lấy đức trời đong Trang điền, thời ấy mà ra
Nhà Trần dẫu nhận sắc phong Cho nên lính ngũ phân đôi Thông minh, tiếng đã gần xa III. TRẦN NHÂN TÔNG (1279-1293)
Thái tử Khăm được triều thần
Vua quan học rộng, tài cao Chương VII.
Nhà Nguyên cậy ở trên cao
Nguyên – Mông ỷ mạnh, hăm he Vua Nam cấp tốc sang chầu Vua Trần phái tướng ngăn đường
Nguyên chủ nổi giận thua không Giặc năm mươi vạn hung hăng Bà Trưng, Bà Triệu quần thoa Quân dân, bô lão một lòng
Vạn Kiếp: Quy hàng, vua định trọn tình Đại Vương đã quyết một lời: ”Thơ Thần” thời Lý – thiên thư ”Này là Kỷ Tín, Do Vu
Lời vàng dẫn dạy đã thành
Toa Đô quân tiến khá nhanh
Thượng tướng Quang Khải chỉ huy Thân giòi có mấy kẻ nên Trần Bình Trọng: – “Ta thà làm quỷ nước Nam Chết đi, tiếng tốt để đời
Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô: Trần Nhật Duật – Chiêu Văn Vương Hàm Tử nổi sóng Bình Than
Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long:
Tướng nhà Trần chém được Toa Đô: Lòng trung ai cũng như nhau Ngự bào cởi đắp, chôn chung
Thoát Hoan trốn chạy về Tàu: Biết Thoát Hoan muốn chạy xa Bắc Giang, chặn đánh Nguyên binh Bài học cho kẻ viễn chinh Đại Vương quyết định mọi bề Địch quân tan tác mười phân Chương VIII
Hưng Đạo phá được quân Nguyên
Năm Đinh Hợi, lũ giặc Nguyên Ngặt là lũ giặc Thoát Hoan Ô Mã Nhi lòng nào cam
của quân Nguyên: Trương Văn Hổ nhận tải lương
Hưng Đạo dự đoán dễ không: Vướng cọc, bị bắt vào tròng Gương xưa, tích cũ có lời:
Thoát Hoan phải kiếm đường riêng Bằng Phi, Lỗ Xích vội vàng Nhà Trần đại phá quân Nguyên Thăng Long khai tiệc mừng công
Mậu Tý, Thiên Thứ xin hòa Hiếu sinh, thả lũ giặc Nguyên
Triều thần lắm kẻ hai lòng Thượng Hoàng chẳng chút phân vân Huyền sử Toản bóp nát cam Trung thần Bình Trọng, Chiêu Vương Võ, Văn công, tội tỏ tường Yên lành hóa giải nguy cơ Chương IX
Niên hiệu: Hưng Long 興 隆
Vua hiếu thảo, phúc trời sanh * Phạm Ngũ Lão Đạo Vương mến kẻ dũng này Giữa trời, “bày tỏ lòng tôi” “Non sông múa giáo mấy thu
(1300-20 tháng, Canh Tí) Chuyện xưa cũng kể một chương Trần Liễu trăn trối rành rành: Đời ngài đáng để làm gương Hơn đồ bán nước, hơn thua
Ai Lao quấy nhiễu dân tình
* Huyền Trân công chúa Nhữ Hài kinh lý phân ra Huyền Trân đội bóng Tây Thi Huyền Trân nhận lãnh tai ương Mạng người nào phải đùa chơi Chế Mân vừa mới ra ma Nhân Tông công đức đã thừa
Niên hiệu: Đại Khánh 大 慶 . Quốc Chân tình thật nào gian Vì ghen, vợ vạch mưu chồng Can qua tức tưởi trong triều Siêu, Hài một dạ đỡ đần Vẽ mình, tục cấm từ đây III. TRẦN HIẾN TÔNG (1329-1341)
Minh Tông ra chiếu nhường ngôi Thời ngài, giặc giã con con Hiến Tông hoàng đế yếu gầy Chương X: NHÀ TRẦN
Nhằm khi vua trẻ băng hà Đào hồ, đắp núi đâu dè
Bên Tàu, Nguyên cũng suy lây Nhà Trần dẫu nhược uy quyền
Chiêm Thành loạn lại đến phiên Chế Bồng Nga lúc bấy giờ
Họ Dương có mẹ hát rong Thương người có mắt mà đui
Niên hiệu: Thiệu Khánh 紹 慶 Hai người cô lấy Minh Tông III. TRẦN DUỆ TÔNG (1372-1377)
Em vua, thế tử thay phiên
Giáp Dần, thi cử hàng đầu
Quân Chiêm phá sập Hóa Châu Lời thiêng vọng giữa thinh không Đỗ Tử Bình với Quý Ly
Niên hiệu: Xương Phu 昌衭
Chiêm Thành đánh phá đô kinh
Sinh linh tán thán gần xa
Nhà Nguyên kết thúc số phần
Nghệ Tông chẳng thể công tư
Nhà Trần ngó bộ tàn giờ Thượng Hoàng tâm mỏng, lòng xiêu
Niên hiệu: Quang Thái 光 扆
Chiêu Định con út Thượng Hoàng Giặc giã nổi dậy khắp miền
Thanh Hóa lại bị giặc Chiêm Thắng thua cũng đã định phần Phản vua, nó chỉ đúng thuyền Chạy đâu cho thoát cơ trời
Từ khi chiến sự yên bờ.
Làm hại tôn tử mà ghê Ba năm trị nước khù khờ
Thái sư phụ chính trớ trinh
Việc tài chính đến việc thi Dân gian phạm tội như nhau
Trường thi theo lệ định phân
Y phục của các quan sai
Tây Đô – Thanh Hóa xây trào Ép màn: ”Nhường nhịn ngôi cao”
Hạ hồi thiệt, giả nào hay Còn đâu vua sáng, tôi hiền Mười hai đời – cả trăm năm Để rồi mất nước, chẳng qua Chương XI
Niên hiệu: Thánh Nguyên Theo Hồ, “Quốc tổ” mà phong Làm vua chưa được rạng danh
Niên hiệu: Thiệu Thành 紹
Hán Thương nối nghiệp cha rồi
Thuyền buôn theo loại mà hô
Toán Pháp được đặt hàng đầu Thi Hội đã đổ, quan đăng
Với Minh, lượn đợt sóng xô Nhâm Ngọ, Đỗ Mãn xuất chinh Được voi đòi tới tiên nga
Nhà Minh tham vọng hết mình Ngôi vua Trần mất nào hay Nhà Minh một lũ quỷ ma
Quý Ly chuẩn bị mọi phần
Thành Đa chẳng thể phá vô
Đinh Hợi, Mộc Thạnh trêu ngươi Quân Mộc Thạnh khí đang hăng
Thua đau, tức tưởi nhà Hồ Núi Cao Vọng, họ Hồ tàn Vinh hoa giống tựa chiêm bao Ham danh chỉ nghĩ lợi mình Chương XII
Nhà Minh giả dối nước đôi: Cắt quan cai trị tham tàn Phẩm hàm tặng kẻ… sơn lâm
An Nam tình thế mong manh Trần Quĩ con thứ Nghệ Tông
Quân Minh bốn vạn tan mau
Còn đâu Đặng Tất, Cảnh Chân… Trần Quý Khoách được suy tôn
Trương Phụ thắng trận, giết ngầu Quân Hậu Trần lắm tin hung: Nguyễn Biểu không hổ sứ thần
Thái Phó tiếng xấu để đời Trương Phụ nhân thế đã tường Trương Phụ khí số còn cao “Thuật Hoài” truyền tụng mọi nơi Chương XIII
Nhà Minh sinh sát trong tay
Hoàng Phúc bắt các phủ, châu
Bắt dân ăn mặc theo Tàu
Mở nhà học dạy các phần: Tứ Thư, Tinh Lý mà phân
Đông Quan – Hà Nội ngày nay
Tính theo sổ bộ phân biên
Mỗi người có giấy hộ thân
Dâu mỗi mẫu, một lạng tơ 9.Việc sưu dịch:
Duy Trung, Nhữ Hốt hợt hời Non sông máu đổ chiến chinh Chương XIV |
Chương XIV MƯỜI NĂM ĐÁNH QUÂN TÀU (1418-1427)
Lam Sơn ruộng núi muôn bề … Nhà Minh dụ dỗ chán chê Thế thiên hành đạo lẽ thường
Lê Lợi bị giặc phục binh
Lần hai bị bắt suýt xao
Lê Lợi cầu cứu Ai Lao
Cháu ngoại Nguyên Đán nhà Trần Nam Quan ải cũ truyền rằng: Quay về, Nguyễn Trãi đắn đo
Trần Trí mang mấy vạn quân
Trận đầu thắng bại đã phân Hết lương nhưng ý chẳng mòn
phải hòa với giặc:
Quân binh thế đã mạnh hơn Vua Minh nhận sớ, bất ngờ Đinh Liệt ra giữ Đỗ Gia
Đinh Lễ vây đánh Diễn Châu
Cướp lương, Đinh Lễ phủ vây
Tiến quân dần đến Đông Đô Nguyễn Xí binh thẳng Đông Quan Nhận thư Thái Phúc mật trao Nghiêm hình, kỷ luật khá cao
Bị thua mấy trận phủ đầu Nhà Minh đã bớt cuồng ngông Quân Minh như rắn mất đầu
Người theo Vương có hàng ngàn
Bấy giờ, Thông quá kinh hoàng Số là phản nước Trần Phong
Bình Định Vương đã đề phòng Đánh đâu, thắng đó dễ dàng
để trị quân dân: Quân đi, dân kính phục thay
Chi Lăng chiến thắng vang lừng Lý Khánh khiếp, phải tự quyên Tướng nhà Lê: Vấn, Xí, Khôi
Mộc Thạnh hoảng hốt chạy xa
Trần Cao dâng biểu xin phong Chỉ cần thả những con tin Bình Định Vương nói chí tình: Tiễn đưa như thể hàn huyên
平 吳 大 誥
Niên hiệu: Thuận Thiên 順 天
Non sông đã hết phong ba Trần Cao nghĩ cũng oan tình Ngẫm mà buồn kiếp thân trâu Lừa Minh, Lê Lợi phân vân Ba năm lệ cống như thường Chi bằng lễ vật mà dưng Hàng văn, Nguyễn Trãi phong hầu Suy ra, kể cũng cười thầm Quốc Công – Nguyên Hãn công đầu “Thượng trí tự“: Thưởng nhất công
Học hành đã được sửa sang
Theo Đường năm tội mà răn Già yếu miễn bớt xiềng gông Hình phạt ấy có bất nhân
Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An
Thái Tổ định phép “quân điền”
Mười vạn ở lại nước nhờ
Ngoài yên, trong nẩy nghi gian Công danh đã chẳng vẹn toàn Xưa nay, mấy kẻ hiểu câu: Đến phiên Thái Tổ lìa trần Sang sông gọi gió đưa thuyền
Niên hiệu: Thiệu Bình 紹 平 – Cậy công, trái phép, làm càn Việc thi cử có sửa sang: Tiền và lụa vải thông hành Những cải cách ấy nước đôi * Nguyễn Trãi bị hại: Làm vua chỉ tạo lỗi lầm Quá nhiều trăng gió trước sau Than rằng: Nguyễn Trãi khơi khơi Chữ son chỉ một mà thôi Côn Sơn suối nước còn nghe Sống làm chiếc lá mong manh III. LÊ NHÂN TÔNG (1443-1459) Trong ngoài lại nổi can qua: Rồi lập Mã Kha Qui Lai Dương thái hậu, đã từ lâu Nhân Tông thì vẫn vua con Phù Tiên vâng lệnh Nhân Tông Nghi Dân cùng bọn Phạm Đồn Mười bảy năm với sóng xô Chẳng qua quá ác, nghe lời Triều cương chém giết phủ phàng
Niên hiệu: Quang Thuận 光 順 . (Mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao Tư Thành thuở nhỏ thâm tình Hương hồn Nguyễn Trãi oan khiên
Luật thời Trần giữ như nhau Các đạo có nhiễu sự sinh
Ruộng điền ba hạng đóng qua 3.Việc canh nông:
Đau yếu, dịch tể định phân
Lễ nghi, tôn giáo loạn hình Thánh Tông trong mấy năm đầu
Sau điều giáo huấn mọi bề
Hai bản, Ngô Sĩ Liên làm
Thánh Tôn vốn thích làm thơ
Luyện quân lo thủ mọi bề
Chiêm Thành lại cứ lăng nhăng Tướng Chiêm chịu cống, xin hàng
Chiêm Thành tạm dứt chiến chinh
Bồn Man làm phản đã đành Nhà vua ngự giá thân chinh
Thánh Tông trị nước giỏi giang Anh minh gương sáng rạng ngời
Niên hiệu: Cảnh Thống 景 統
Niên hiệu: Thái Trinh 泰貞 Triều thần liền chọn người anh Làm vua nổi tiếng bất nhân Thường dùng “ngoại thích” dối lường Quan tôn thất, quyết chẳng dùng Nói về họ Giản tên Oanh VII. LÊ TƯƠNG DỰC (1510-1516) Khốn thay mười mấy năm trời
Dân gian, thuế vét… đáy vơi
Vũ Quỳnh, binh Bộ thượng thư
Hoang chơi, vua quá là ham Sanh ra nội loạn tứ bề Phùng Chương, Tam Đảo một khung Cho mình “Đế Thích giáng sinh” VIII. LÊ CHIÊU TÔNG Bọn Trịnh Duy Sản thấy phiền Triều đình chính sự bất phân Thương rằng Quang Trị chết non
Đông Đô nhiễu loạn Trần Cao Bọn Trịnh Duy Sản chuyên quyền Quân Trần Chân chận bốn phương
Triều ca lại loạn đến phiên Trần Chân quyền bính tóm thâu Hai bên đánh quyết sống còn
Mạc Đăng Dung ở Đông Cao Sức mạnh đánh cá chẳng chê Bấy giờ quyền thế mọi phương Chiêu Tông hối hận đã rồi Thống Nguyên tước hiệu Cung Hoàng Đặng Dung dụ kẻ vô nghì Cung Hoàng, Thái hậu đồng thông Triều thần máu chảy, đầu rơi Xót nhà Lê chẳng bỏ đi: Triều Lê khoa bảng đường đường Thị phi tiếng mãi còn nguyền Mười đời Lê cũng đã truyền Ba vua giữ vững non sông Nhà Lê thời thế đã qua Chuyên quyền họ Trịnh về sau Quyển IV |
TỰ CHỦ THỜI ĐẠI (1528-1802) (Thời kỳ Nam Bắc phân tranh) NHÀ HẬU LÊ 黎 後 Thời phân tranh (1533-1788) … Chương I LỊCH TRIỀU LƯỢC KỶ Nước Nam một cõi biển Đông Ngô Vương đuổi Hán uy phong lẫy lừng. Tiên Hoàng dẹp loạn sứ quân “Quan quang thượng quốc” vào chừng sáu trăm. Hậu triều Lê quá hoang dâm
Sáu năm tan nát sơn hà
Hai nhà Trịnh – Nguyễn phân tranh Chương II
Đăng Dung nổi gió được mùa Cho nên lấy đức mà đong Nhiều người chẳng phục, giương cờ Noi phép Lê, bắt chước Trần Ngôi vua truyền Mạc Đăng Doanh
Gian hùng, chính khí bất tri Đinh Dậu, mưu sự chiến chinh Giặc chưa đến đã vội vàng Tôi trung nào lại soán trào Vua một cõi, lại hẹp hòi
Từ khi Mạc cướp ngôi vì Hoằng Dụ xưa đóng Bồ Đề
Lê Trang Tông (1533-1548) Làm vua mười sáu năm hờ Trịnh Kiểm, con rể kế vì Một nhà hai cảnh, hai quê Lê Trung Tông (1548-1556) Vua không con, Kiểm ngấm ngầm Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn thông minh Qua lời, thấy Trịnh khá tham Họ Trịnh nghe được giật mình Lê Anh Tông (1556-1573) Triều cương rối loạn tơi bời Hữu Liên kiếm được vua ra Lê Thế Tông (1573-1599) Vua Thế Tông chỉ có ngồi Thời ngài, họ Mạc chạy xa Đăng Dung vây cánh đi… tong Mười năm sau đến Hiển Tông Phúc Nguyên lấy hiệu Tuyên Tông Tưởng đâu đem kiếp thân trâu
Trịnh Tùng Tuy rằng chẳng mấy người thương Cho nên mới cúng tế trời
Trịnh Tùng bắt Mậu Hợp đi Từ khi họ Mạc rắp tâm Ít lâu, Liễn chết để câu:
Họ Mạc tố giác Trịnh Tùng Ngàn cân bạc, trăm cân vàng
Kính Chi, Mạc Hợp bị gông Con trai, Kính Dụng không ngờ Bị Trịnh Tùng đuổi, tay trơn
Trịnh Tùng quá thể kiêu căng
Nguyễn Kim lo liệu mọi bề Phước phần chẳng tới cung son Nguyễn Hoàng sợ Kiểm dứt tình Họ Mạc cũng được mách câu: Nguyễn Hoàng thấu hiểu lẽ tình Một lòng giữ lấy đức nhân Nguyễn Hoàng kiếm cách mấy phen Nguyễn Hoàng cẩn thận làm đầu Chương IV
Lê Kính Tông Thăng Long, Mạc chiếm nửa phần Lê Thần Tông Rồi Tùng mạng cũng chẳng còn Kính Khoan là cháu Kính Cung Họ Trịnh lại muốn trừ căn Mạc – Trịnh mưu sự ủ ê
Nước Tàu có xứ Mãn Châu Mãn Châu bị cắt bốn phần Lỗ Nhĩ Cấp Xích mất đi Đến khi đất nước chiến chinh Tự Thành kêu gọi đầu hàng Phúc Vương, vua ở Nam Kinh Trời mưa, đất chịu âm thầm Nhà Trịnh chuẩn bị mọi bề
Minh, Thanh chưa ngã ngũ xong “Đàng trong quả thật họa to” Phúc Vệ, Hữu Dật chống cùng
Canh Ngọ, dự tính đánh nhau Trịnh Tráng nghi hoặc, không màng
Ất Dậu, chúa mất, con thay Tưởng trời như đã giúp mình
Mậu Tý, Trịnh Tráng trổ mòi Trường Dực, đánh mãi không vào Trong Nam, chúa Thượng mạng tàn
Ất vị, Tiến, Dật vượt sông Tướng Trịnh, Phạm Tất ra hàng Tướng Nguyễn giỏi quả không ngoa Nghệ An, Trịnh Tạc hồi trào Trịnh Toàn, con út ra oai Vừa khi, Toàn được lòng dân Anh em vua chúa xưa nay Quân Nguyễn được báo, phòng cao Hữu Tiến, Hữu Dật giữa cầu
Tân Sửu, thẳng tiến Linh Giang
Rước vua, Trịnh Tạc hoang mang… Bày ra thảm cảnh ngăn sông Bốn mươi lăm năm lệ rơi Chương V
Thời kỳ thứ nhất: (1570-1657)
Ất Sửu, Kính Khoan xin hàng Quân Trịnh vây đánh tưng bừng Ba đời truyền tập không lâu
Thời kỳ thứ hai: (1657-1729) Thượng thư – Lục bộ hàng ngang: Mỗi năm quan võ thi trình Quan hưu, bổng lộc chẳng đồng Sáu trăm mua bậc chức nhàn
Ưu binh được cấp công điền
Hình luật từ trước tới nay Xử không xong, phạt nộp tiền Lệ xử không được kéo dài:
Sáu năm, hộ tịch khai thông Công điền, ba hạng tính ra
Thuế tuần ti Thuế muối: Thuế thổ sản:
Lắm giặc thời chúa Trịnh Giang
Mỏ đồng Ngọc Tuyển, Thái Nguyên
Dùng tiền Hồng Đức bấy lâu
Đong lường, lối cũ, lệ riêng:
Bản in sách phát toàn dân
Thi cử quy định dễ dàng
Mở trường chiến lược chiêu sinh. Canh Thân, lập miếu hiền tài,
Nước nhà bao nổi trầm, thăng Đời Hi Tông, năm Bính Thìn Sử chép công việc mỏi mê Tham khảo sử cũ, làm tròn
Thời kỳ thứ ba (1729-1782) Nhân dân mất cảnh thanh bình Chẳng may mưu sự vỡ lần Để hòng gìn giữ cơ ngơi Giặc Ngân Già: Giặc Ninh Xá: Quan nha Thống lĩnh Hải Ninh Nguyễn Hữu Cầu (Quận He): Giết quan Trịnh Bảng rửa hờn Trần Đình Cẩm với Phương Đề Hữu Cầu cá chẳng mắc câu Đi đâu cũng có người theo Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo): Sáng chiều lo tích trữ lương Hoàng Công Chất: Lê Duy Mật Duy Mật chiếm cứ vài nơi Bắc – Nam phân giới hai đường Nguyễn Phan, Thế Đạt ra tay Duy Mật kiên quyết thủ thành Khởi binh, dấy loạn cũng nhiều Họ Trịnh làm có như không Chương VI
Triều cha, chúa Trịnh bổ quan Xá sai ti tụng án văn
Đinh Hợi, chúa mở khoa thi
Võ bị, huấn luyện kỹ càng
Thuế điền ba hạng xét coi
Quý Dậu, chúa lại xét dò Cho nên định luật tháng Giêng
Phù Nam nước bị chia hai: Về sau, bóng gắn với hình Sinh sau nên bị cọt còi Tiêm La thế yếu mới đành Phúc Khoát thư trách vua Tiêm Chúa rằng quốc lệ đã truyền Quốc Anh người tỉnh Hà Đông Tiêm La gây chiến tưng bừng Nặc Ông phải kiếp không nhà Mặc Thiên Tứ chẳng chịu cho Chiêu Thúy dõng dõi Tiêm triều
Đến đời chúa Sãi, Phúc Nguyên Vũ Vương, Giáp Tí trở đi Phú Yên, Bình Thuận, Bình Khang Hà Tiên, Thiên Tứ lấn vô Đời Nguyễn Phúc Khoát đổi dần: Chương VII
Người Âu châu sang Á đông.
Đạo Thiên Chúa: Người theo đạo, chúa lo xa Chúa Hiền… “ác” với Gia Tô Thành ra có sự oán hờn Đôi bên chém giết hàng đàn Chương VIII:
Đời Nguyễn Hoàng tính trở lui Vũ Vương di chiếu lập từ Họ Trương đảo lộn cương thường Anh em trở mặt phân tranh
Phù Ly, huyện lỵ Quy Nhơn Thương người khốn khổ mưu sinh Quảng Nam vây đánh tốc hành
Khi nhà Nguyễn có loạn tình Hoàng Đình Bảo giả như không Sau khi chúa Nguyễn rã rời
Định vương ngự ở triều ca Gia Định, Nhạc lấy êm ru Nguyễn Nhạc xưng Đế ở Quy Nhơn (1778): Trong tay ấn, kiếm Trịnh ban Tin lầm, Phúc Hợp vạ chung Nguyễn Nhạc thấy rõ tình hình Công hầu “phước” chẳng ra gì Nguyễn Nhạc xưng Đế lập vì “Tiết chế“, phong Nguyễn Lữ ngay
Tranh giành biết chúa nào chơn Nguyễn Huệ bắt được, chẳng tha Chiêu binh đánh trả từ đây “Đại nguyên súy” được tôn xưng Tiêm La thống sứ từ lâu Đỗ Thanh Nhân sớm thay lòng Thêm vào hiếu sự hai bên Chất Tri chẳng chịu thiệt thòi Vua Tây Sơn năm Nhâm Dần Cần Giờ, Huệ đánh tiên phong Tây Sơn – chúa Nguyễn phân tranh Vương từ Phú Quốc về thành
nước Pháp – Lan Tây: Bá Đa – giám mục mới bày: Tiêm La, Ánh cũng “cầu xin” Lời rằng tốt, xấu không phân
Dân tình oán nẩy, hờn sinh Đuổi Xiêm, phá Nguyễn hai bờ “Cõng rắn để cắn gà nhà” Chương IX |
Chương IX HỌ TRỊNH MẤT NGHIỆP CHÚA (1510-1786)
Trịnh Sâm bỏ trưởng, dâm tà Bèn sai Vũ Thiệu Thị lang Trong triều, đảng phái tung tăng Sâm cha sắp chết, chưa cam
Quan quân biến loạn triều cương Quân Tam phủ – lính Nghệ Thanh Đốt nhà Công Trứ chẳng tha Nhà Trịnh đã đến thời xiêu
*Nguyễn Hữu Chỉnh: Cống Chỉnh đảm lược, giỏi Nho Hữu Chỉnh biết Nhạc từ lâu Binh ra Thuận Hóa làm đà Hoàng Đình Bảo chẳng hay chi Đình Bảo tử chiến thơm danh
Kiêu binh Bắc phủ đang lờn Bùi Thế Toại, Tạ Danh Thùy Khen cho Chúa Trịnh cầm cờ Gian xảo kế, có Nguyễn Trang Hai trăm mười sáu năm ròng Chương X
Nhà Trịnh số đã an bày Tây Sơn dứt Trịnh vừa xong Nguyễn Nhạc ở Bắc ngại phiền Hữu Chỉnh bị bỏ, vội vàng Nhà Trịnh đã hết làm ngang Đình thần lắm kẻ hàng hai Chiêu Thống lập Án Đô Vương
Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp Trịnh xong Tây Sơn máu đổ dầm dề
”Anh em nhồi thịt da đau” Vua thấy Chỉnh sắp ra ma Vũ Văn Nhậm giết Chỉnh xong Nguyễn Huệ khi nhận được tin Nguyễn Huệ thấy việc xong rồi Lê Chiêu Thống có như không Chương XI
Triều quân chủ, sử còn ghi: Nguỵ triều: tiếm vị, lòng điêu Hưng vong, lấy lẽ đo lường
Vua tài, lịch sử còn ghi: Cùng anh dựng nghiệp Tây Sơn
Vua Lê thế bí đường cùng Càn Long nghe Sĩ Nghị tâu: Thế giặc mạnh, Văn Sở chờn Bắc Ninh, Nghị đến ung dung Tuồng như lũ Mạc Đăng Dung Tàu ngày, cướp phá dân làng
Đánh giặc nào chuyện đùa chơi Quang Trung phủ dụ chiêu an Quang Trung mưu tựa Khổng Minh Cuối năm tiến thẳng Bắc Hà Ngọc Hồi tuyến địch đầu điên Loa kêu, quân địch rối bời Đạn Tàu xối xả không thôi Quan Thanh: Đề đốc Thế Hanh Nửa đêm, tin xấu báo ra “Quân trung vô thủ”, trước sau Quang Trung vừa tới Thăng Long Vì tờ mật chiếu Càn Long
Càn Long chiến sự không thành An Khang có tính mê vàng Hòa Thân được của, tâu trình Quang Trung chọn kẻ giống mình Càn Long tiếp đón hẳn hoi
ở bên Tàu: An Khang gạt Thống cùng phương Văn Quyên họ Nguyễn không vừa Trung quân báo trọn hoàng ân Tình cảnh Chiêu Thống lâm ly “Rước voi về giày mả cha” Nương mình nấp bóng nhà Thanh Thiên cha cũng thiệt… thiên tinh
Quang Trung đức độ cao dày Nguyễn Thiếp dạ thẳng lòng ngay
Phu thê, dạ cũng vuông tròn Bắc thành tên gọi thành Thăng Phân tri, văn Huyện rập ròi
Quan chế, sử có ghi qua:
Đinh (người) ba hạng phân minh:
Thi Nôm, học giỏi làm quan
Sư nhiều, lắm sãi mòn trôn
Nước Nam, Tàu cứ ngắm dòm Quang Trung thiệt khác người ta Cầu hôn tính nước về sau
Vua hiền tài, chẳng thọ cao Rạch Gầm, Xoài Mút hay chăng
Chí cha, Quang Toản khó làm Không đem xã tắc làm đầu Chương XII
Nói về Nguyễn Ánh nhanh chân Lưu vong so Thống khác gì Kiếp Vương sung sướng chỗ mô
Khi Ánh khổ ở Xiêm La Được phong là Bắc Bình Vương Rồi khi Nhạc – Huệ trở cờ Nguyễn Ánh chí lớn không sờn Bấy giờ hào kiệt, nhân văn Văn Tham, Thái phó tài non Phạm Văn Tham đã phản công Võ Tính đáng bậc mày râu Nguyễn Vương hết sức tin dùng Tây Sơn, Thái Bảo ra ma
Nguyễn Ánh lo việc sửa sang
Nguyễn – Nam, Trịnh – Bắc căm hờn
Thông thương các nước gần xa
Ánh đem hoàng tử ngoại giao ”Pháp giúp Vương bốn chiếc tàu May sao “nhục ước” buồn cười
lần thứ nhất (1790): Văn Câu binh bại tiêu tan Nguyễn Vương lại tự thân chinh Nguyễn Vương giục thủy binh liền Tây Sơn – Nguyễn Nhạc não nề Văn Châu, thống lĩnh đi cùng
Phạm Công Hưng giải vây xong Tây Sơn Nguyễn Nhạc về trời Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Vương Tây Sơn thế lại mạnh lên Bùi Đắc Tuyên lại chuyên quyền Dìm sông chết kẻ anh hùng Lui binh, Quang Diệu về rồi ”Tứ trụ” chẳng được bao ngày
lần thứ hai (1797): Tây Sơn con cá thờn bơn Nguyễn Vương thấy khó lui về
lần thứ ba (1798): Lê Trung, Trấn thủ không xong Giết nhau quả thiệt tơi bời Quy Nhơn, Ánh lấy về nguyên
Tây Sơn xáo xộn bên trong Canh Thân, Quang Diệu ra binh Tháng giêng Tân Dậu, tương tranh Được Thị Nại, lại tay trơn
Tây Sơn vây mấy tháng ròng Võ Tính ngay thẳng một lòng: Hai bên loạn chiến tơi bời “Lạy trời cho có gió Nồm Phú Xuân như đánh giỡn chơi Quang Thùy, em chẳng rời xa Tôi trung chẳng gặp thời chung
Quy Nhơn: Võ Tính, Tùng Châu “Như ta chủ tướng thì liều Tùng Châu nghĩa đảm đầy vơi Vào thành, Quang Diệu an dân
Phú Xuân thất thủ, tin qua Tướng Nguyễn thấy chống không xong Tháng giêng Nhâm Tuất, Quang Thùy Nguyễn Văn Thận giữ Nghệ An
Gia Long nguyên niên 嘉 隆 元 年
Văn Trương, đường thủy đánh ra Khiến quan Trấn thủ hoảng kinh Cảnh Thịnh thấy quân vỡ tan Quang Thùy, Đốc Tú đau lòng Tiểu nhân, quân tử khó bình Tây Sơn dựng nghiệp không lâu Quyển V
Tây Sơn xóa xổ vương hầu Bắc thành tên gọi bấy giờ ”Hiến phù” làm lễ rửa hờn Hình gia xử ác, người ghê
Điêu linh sáu chín năm ròng Quan nào lập phái, kết bè Triều ca sửa đổi mà truyền:
Ban công, định tội liền nhau Kinh đô nơi đặt Thâu binh Tàu thuyền lớn, bọc đồng thau
Tài chính đổi mới hợp tình Thuế điền, ba hạng thu mua Mười lượng bạc, một lượng vàng
Gia Long cứu xét mà bàn
Làm theo luật lệ nhà Lê
Học hành, thi cử nào chơi Nước nhà cần võ và văn “Văn tế” của Nguyễn Văn Thành Địa dư, Quốc sử cùng thời
Năm Giáp Tý, Tàu sang phong Ngà voi, quế mỗi trăm cân
và nước Tiêm La: Láng giềng, Thế Tổ… dòm xem Chân Lạp nhận phận chư thần Quân Tiêm La xuất binh liền
Năm Quý Hợi, nước Hồng Mao
Với Pháp, trọng chín, kính mười
Người đời vẫn có cái câu: Hồi chuông cảnh tỉnh xa gần Văn Thành vốn ở Thừa Thiên Trung quân chức cũng từng qua Văn tài lắm nẻo truân chuyên Duyệt – Thành hai tính ngược đôi Triều đình ép nhận tội mau Trần Thường số cũng buồn cười Thượng Thư Binh Bộ cũng chì
Nguyễn Ánh bền bỉ khôn lường Nhưng khi hết chuyện truân chuyên Hán Cao, Thủ Độ còn hơn Công thần số phận trêu ngươi Làm vua mười tám năm ròng Chương II
Hoàng thái tử Đảm thay cha Nhìn dân ngả ”Đạo” mà lo
Lâm triều, phán xử anh minh Minh Mệnh thay đổi ngọn ngành
Nguyên niên Minh Mệnh, Canh Thìn
Minh Mệnh, năm thứ mười lăm
Minh Mệnh mười bảy, Bính Thân Một Tôn nhân lệnh đứng đầu
Thánh Tổ xếp đặt thứ quan Chánh Nhất Phẩm có bốn vai: Tòng Nhất Phẩm đệ nhị trào
Minh Mệnh năm thứ mười hai
Kỷ Hợi, Minh Mệnh hai mươi
Loại “quan tiền”, vua thưởng riêng
Học hành thi cử chiêu sinh
Văn chương ưu ái dăm phần
Cuối đời Thánh Tổ trở đi Mười điều răn dạy làm gương:
Thánh Tổ thương kẻ nghèo nàn
Đinh điền, thuế má không tăng
Võ bị cũng chẳng chây lười |
Chương III: THÁNH TỔ (1820-1840)
Tiêm, Lào quấy nhiễu Nam, Tây
Giặc cỏ quấy mấy Huyện, Châu
Nguyễn Hạnh, Đức Cát, Bá Vành Tiên Minh, Huyện lệnh quấy tơi Vua sai tham biện Nghệ An
Đương thời, có cháu nhà Lê Đem binh vây Huyện, Châu, Thôn Bắt Duy Lương giải về kinh
Nông Văn Vân ở Tuyên Quang Văn Khôi dấy loạn Phiên An Bắt quan tham, thích chữ liền Quang Cự lấy lại Cao Bằng Phạm Văn Điển đuổi tận hang
Nam Kỳ đất mới khai hoang Tổng trấn Gia Định thương dân Lê Văn Duyệt mất, chẳng ngờ Tội nhân có Nguyễn Hữu Khôi Bị Xuân Nguyên bắt chẳng tha Quân triều đang đóng Phiên An Công Triều nhận lệnh, ra binh Đem Thủy, Bộ, Tượng đánh ngăn Ngã đau mà chết im lìm Trời còn có đức hiếu sanh Sáu người bị bắt, hết thời Một linh mục Pháp cùng chung
* Lê Văn Duyệt 黎 文 悦 Sử kia, nhà Nguyễn còn truyền: “Vua rằng: Tội sống không tăng Nghĩ lại, mới thấy vô chừng
Tiêm La thủy bộ năm đường Thánh Tổ được báo, tức thời Nguyễn quân lấy lại Hà Tiên
Quân Tiêm đã nhúng tay chàm Cam Môn, Sầm Nứa, Mương Duy
Lấp Trấn Tây thành (1835) Long, Kiên một bọn đồng liêu Đại thần Tham tán quan sai Kiểm buôn, xét bán hàng ngày
Lo kẻ gian lẫn ngoại ban Lãnh sự Anh, Pháp vào xin Mười năm đối ngoại ơ hờ
Ngỡ mình dân tộc văn minh Giáo dân bị giết thẳng tay Sinh linh cực khổ muôn phần
Minh Mệnh vượng số không bền Chương IV: HIẾN TỔ (1841-1847)
Miên Tông thái tử đôi mươi
Giặc, loạn quấy nhiễu quốc gia Lâm Sâm vốn ở Nam phần Nguyên niên Thiệu Trị đến năm Trấn Tây mất tướng, giảm uy
Tiến Lâm, Công Trứ xuất chinh Quân Tri Phương phủ trùng trùng
Cấm đạo đã lỏng vài phân Quân Pháp ngang ngược, làm cao Đinh Vị, Hiến Tổ xuống mồ Chương V: DỰC TÔNG (1847-1883)
Hồng Nhậm hoàng tử nhỏ người Thờ mẹ Từ Dụ hết lòng Trọng Bình, Đăng Quế họ Trương
Người trẻ đi khắp xa gần Tự Đức nhanh chóng duyệt ngay ”Khai mỏ, luyện tập quân chuyên Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La Tân Tị, những kẻ trẻ măng
Tự Đức phạm phải lỗi lầm
Cấm đạo khắc nghiệt gắt gao Ngu dân phải cúng ông cha Lửa không chịu nổi nước dâng
Đại loại thuế sản, linh tinh Bây giờ kiếm cách thu tiền Trưng thu chẳng được là bao
Triều đình Nguyễn tính về sau Mở Nhã, Cát sĩ tập thi Tiếc thay những chuyện đáng bàn
Tưởng lính mình giỏi, hóa ra Tập luyện lại chẳng hàng ngày Lính thế sao giỏi, hỡi ơi Chương VI
Luận * Triều đình: Đôi điều đã định xưa nay * Quan tư: * Quyền tự trị của dân làng: Luật đình không được chen ngang Trình làng tính chuyện đưa duyên
Coi theo sứ mạng mà phân ”Công” chỉ là thợ nghèo hèn ”Thương” loại buôn bán mắn may “Phi thương bất phú” một đời ”Sĩ” mới là đóa hoa tươi Thi Hương “phụng chỉ cầu hiền” Mù mờ trình độ thất kinh Lệ thành “Nhất sĩ, nhì nông“
Điều vua dạy nhớ mà ghi: Thi hỏng, bức chí, hóa ngông Lòng dân ta than oán sầu Chương VII
Từ đời Minh Mệnh, Dực Tông Giết hại giáo sĩ người Tây Đình Lý, quan Nguyễn đương trào Lính Pháp tiến chẳng được chi
Rigault ra đánh Bắc Kỳ Đô đốc là Vũ Duy Ninh Ra Đà Nẵng, đánh Tri Phương Thành ra thương thuyết chẳng hay Tướng Pháp lại mắc bệnh đau Sài Gòn, Pháp, Ý chẳng kham Đào hầm “thủ”, chẳng dám “công” Nước Pháp muôn sự được lành Gan người sao chống đạn Tây
Binh Tri Phương loạn quân tình. Thượng thư Bộ Hộ, Bá Nhi Triều đình Huế tính nước đôi Đất mất dần bởi ngoại xâm
Tân Dậu, Pháp đổi tướng qua Nhâm Tuất, đánh chiếm Vĩnh Long Trương Văn Uyển thấy không xong
Nam, Bắc nổi loạn tứ bề
Đạn dược, binh khí, tỉnh nhường, cấm qua.
Hoặc san, nhượng đất, báo qua Pháp tường.
Vào cửa Đà Nẵng, thương trường Quảng Yên.
Nước Nam phải chịu trả tiền mười năm.
Nhưng dẹp xong loạn mới cam rút về”. Hồn ai luyến nước trên đời
Nhường đất, Tự Đức sầu bi Ngu khờ đâu kẻ xâm lăng
Chuộc ba tỉnh mất cơ may Mở trường, định thuế, canh tân Grandière làm được công trình
(Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) 1867: Triều đình mặt mũi nở ra Giáp Tí, thôi chuyện chuộc thành Pháp cai trị có lối lề Pháp nhân chuyện lập kế liền: Triều đình Huế tá hỏa ra Cá mè một lứa hè nhau “Thôi thì… nộp quách thành trì Mất đất cũng lỗi đương trào Chương VIII
Trị dân, vua có lệnh ra: Cho nên nổi dậy dựng cờ Nào là giặc Khách, loạn ta
Quảng 廣, Nghĩa 義, Đường 堂
* Lê Duy Cự 黎 濰 柜 Xuất thân Phú Thụy, Bắc Ninh Quan binh Lê Thuận dẹp nhừ ”Thần Siêu, Thánh Quát” về trời
* Tạ Văn Phụng 謝文俸 Dựng Lê, hắn nẩy ý tham Bắc Ninh, Văn Thịnh làm cai Qua Yên Dũng, đánh Lạng Giang Điều quân ba tỉnh thay phiên Cao Bằng, giặc Khách chưa yên Nguyễn Tri Phương lại tảo thanh Nam Kỳ, Văn Phụng viện binh Đức Dụng, Huy Sách hoảng kinh Hải An quân vụ Tri Phương Giặc lui về giữ Hải Ninh Phụng, Ước trốn ở Quảng Bình Cao Bằng, giặc Khách lấy đi Chia binh bốn hướng Lạng Sơn
Loạn ngoài tỉnh, loạn thâm tình Hồng Bảo bức chí cái tôi Người con lại được lưu tình “Vạn Niên là Vạn Niên nào Mưu tôn Đinh Đạo tấn đường Xông vào điện giết Dực Tông Đồng đảng, trị chẳng lưu tình
Bên Tàu chính sự cũng hư Quảng Tây vốn có Hồng binh Tướng nhà Thanh: Tăng Quốc Phiên Nội bộ tranh đấu mất còn Trá hàng rồi phá xung quanh Ông Ích Khiêm, Nguyễn Viết Thành Triều đình sai Võ Trọng Bình Chương IX
Nam Kỳ, Pháp đã lấy đi
Tên Đồ Phổ Nghĩa thiệt chì Triều đình biết hắn làm càng Triều đình chẳng muốn lôi thôi
ra Hà Nội: Pháp – Phổ vừa mới đánh nhau Gặp khi Tường, Doãn vào trình
Đại úy làm chuyện trớ trinh Quan nhà Nguyễn tá hỏa ra Can trường, tướng Nguyễn Tri Phương Một nhà nghĩa trọng thâm tình Triều đình Huế đã hoảng kinh
Hà Nội thất thủ, thế cùng Uổng thân cái lũ quan thầy
Triều đình Huế lại ngu ngơ Đình Túc, Gia Hội chung đò Toàn quyền Lê Tuấn nhận lời Suý phủ ném đá giấu tay Đang khi thương thuyết cao trào Phục binh Cầu Giấy đón đầu
Tin đen, thống soái lôi đình Trả bốn thành, lệnh thực thi
Mọi việc như đã mong chờ ”II.
Để dân tự chọn con đường Đạo, Lương? Khi hòa ước ký xong rồi Hòa ước bán đất, buôn dân Chương X
Hòa ước, nổi loạn đi đôi Trần Tấn và Đặng Như Mai “Triều đình hòa Tây bỏ ta Lấy Hà Tĩnh, đánh Diễn Châu Khâm sai chính Nguyễn Văn Tường
Mạn Hải Dương, tỉnh Quảng Yên Garnier quay mặt dửng dưng Tôn Thất Thuyết đánh quá hăng Tôn Thất Thuyết lại dẹp êm Trước làm quan ở Tầm Châu Bắc Kỳ giặc loạn ngỗn ngang
Nước Nam độc lập nhưng hiềm Triều đình Huế tính nước đôi: Dực Tông sai sứ đi tranh Hòa ước Giáp Tuất trở đi Năm Bính Tý, sứ Dực Tông: Nhà Thanh sai Trương Đình Canh
Nước Tàu trước vẫn thượng thiên Thế kỷ mười chín, Tây Âu Mới ra hòa ước Nhâm Dần Canh Thân, máu nhuộm thượng đình Triều đình Nguyễn vẫn ngóng trông
Bắc Kỳ tạm ổn mọi nơi Thượng thư Bộ Hộ gặp may Hi Tăng, Tăng Doãn vào luôn Rheinart khâm sứ ra thay Rhinart cáo bệnh về rồi Mậu Dần, đấu xảo Paris Sang Hương Cảng, học trường Anh Khâm sai Huế – Philastre Xiêm, Tàu giao thiệp bao phen. Hai bên tình thế chẳng an Nước Anh, Mỹ, Ý lại căng Lĩnh sự Pháp lại đổi quan Cờ Đen loạn, triều đình ngơ Tình hình chiến sự phát sinh Chương XI |
Chương XI PHÁP CHIẾM LẤY BẮC KỲ Lần thứ hai (1882)
Người Pháp có giấy thông thương … “Nước Pháp chẳng thể chần chừ “Luật vua xem chẳng còn linh
Đãi đằng tử tế cho xong Tám giờ, quân Pháp đánh nhanh. Thắt cổ chết, rạng mặt mày Dực Tông triệu tập vội vàng Rheinart khâm sứ phân qua: Hai lần lấy, trả hai lần *Pháp phải bảo hộ nước ta
Triều đình bị ép đã chao Tổng đốc Lưỡng Quảng: Thụ Thanh Bắc Ninh, quân tiến ung dung
Pháp muốn thu xếp dần dần Vilers thay bởi Thomson Triều đình đã trả lời: “Không”
Vừa khi Pháp tiến, Tàu vào Berthe, đại uý đánh vùi Lui về mà giữ Bắc Ninh Nam Định đã ở trong tay Bị thương: Đại úy Villers Lục quân thiếu tướng Bouet. Harmand ra Bắc toàn quyền. Quân ta đánh Pháp tưng bừng Giáo gươm chống đạn quá tài Rối ren, đất nước te tua
Nhà Nguyễn đã đến lúc xui Triều thần chuyên chế bên trong Di chiếu cũng đã bàn qua: Di chiếu: Phụ chính đương trào Ba ngày, Tường, Thuyết đã làm Triều thần chẳng dám nói gì
Hiệp Hòa mới lập xong xuôi Courbet đánh cửa Thuận An Hải Phòng, trung tá Brionval Lục quân tiến đánh Bắc Kỳ
Triều đình thấy sự chẳng xong Quý Mùi, tháng bảy, hăm ba Hăm bảy điều khoản tham lam:
Hòa ước bán nước, vinh chi Phong chức Công Bộ làm cai Non nhà đại nạn lầm than
Triều đình Huế lại rung rinh Thấy vua lòng đã sinh nghi Thái hậu nào dám nói gì Thuyết, Tường nào dễ trêu ngươi Thấy quan Phụ chánh Tiễn Thành
Dưỡng Thiện được chọn cho qua Bắc Kỳ, quân giữ mấy phương Khâm sứ Pháp Huế trách cho Nước nhà gặp buổi sinh ly Thiện Thuật quân vụ Sơn Tây
Harmand lập lính khố xanh Cờ Đen chận đánh đồn Phùng Lục quân trao lại Bichot
Hai bên chiến sự giao tranh Thiếu tướng còn đang sửa sang Viện binh từ Pháp tinh khôn Cờ Đen, Tàu, lính, ôi chao
Quân Tàu càng mạnh, càng đông Được binh, Pháp mới hăm he Bắc Ninh – Hà Nội: Tàu, ta Sáu ngày đánh hết sức mình
Quân Pháp tiến đến mạn sông Hai bên khởi sự đánh càn Kế Viêm binh rút cùng ngày
Cờ đen đang đóng Tuyên Quang
Giáp Thân (1884-1814) Đôi bên thỏa thuận mọi bề Thấy ngay mưu sự cầu ngoài
năm Giáp Thân (5-1884): Mười chín điều khác chút thôi Ấn Tàu bắt nấu chảy đi Pháp đô hộ cả ba kỳ Còn đâu lịch sử nghìn năm
Triều đình cũng chẳng nhận ra Thất Thuyết nóng nảy, tài bươi Nguyễn Văn Tường nắm hàng văn Thuyết dùng nghi vệ vua tôi Tiền thời Tự Đức mà ra Hai ông cậy thế làm càn Ai gan dám chống hai ông Tháng tư, mồng sáu Giáp Thân
Thuyết, Tường sinh sát toàn triều Rheinart, tư giấy có ghi: Thống tướng Millot ra uy: Chữ Nôm giấy phép đệ trình Chương XIII
Hòa ước Tàu – Pháp ký qua Sáu ngày xin hoãn xem sao Millot sai tướng Négrier
Bắc Kỳ, Tàu đánh, tin nhanh
Bể Đông, Pháp bắn tan tành Viện binh hai vạn dưới cờ Lạng Thương, Négrier đăm đăm Đông Bắc, Tàu rút mất tăm
Quân Tàu đóng ở Quảng Yên
Ngàn viện binh Pháp lăm lăm Tức là Đồn Chũ đánh ngang Hai bên giao chiến thiệt hơn Ất Dậu, thiếu tướng De Négrier
Khi Pháp đánh ở Lạng Sơn Dominé vừa thủ, vừa canh Ất Dậu, lính Pháp vượt sông
Quảng Tây, đề đốc thị uy
Bấy giờ, Pháp tính thiệt hơn Sứ thần Pháp ở Bắc Kinh Tham mưu tổng trưởng Warnel Pháp hưởng quyền ở Việt Nam Chương XIV
(18-4-1885 Ất Dậu) Dục Đức chết thật thê lương Lập đồn Tân Sở hậu thân Đánh Pháp, ý định đã đầy Năm trăm quân tới thị uy Chào hàng ở cửa Thuận An Thuyết, Tường lừng lẫy uy nghi Đầu trọc, người béo, đen mun Chừng như đối đáp người ngoài Thuyết viện cớ bệnh không đi Thuyết bèn sửa soạn đánh Tây Triều đình thấy Pháp xử thô
Hôm sau, Cơ mật viện chờ Courcy khinh mạn muôn phần Nhà xung quanh cháy rực trời Văn Tường vào giữa điện tâu Dân gian, già trẻ dập vùi Trường Thi, xa giá bôn đào Quảng Trị, xa giá nghỉ chân Lương, tiền, khí giới mất đành
Pháp chiếm giữ khắp mọi nơi Thương bạc viện, chức vẫn y
Văn Tường viết sớ kết cam Hàm Nghi rồi phải lên đường Quảng Trị, tin tức thớt thưa Thuyết thư về nói trước sau Văn Tường giục kíp hồi trào Khi Tường đi vắng, Thọ Xuân Tổng đốc Nam Định: Đình Bình Văn Tường, Hữu Độ chống nhau
Quảng Bình, hịch đã phát ra Thống tướng định dẹp cho nhanh Pháp dịch chết mấy ngàn binh Văn Tường ngày hẹn xong rồi Courcy Thống tướng Bắc Kỳ Haiti, đảo lạ sóng xô
Trị Tường, thống lệnh đã ban Hàm Nghi nghĩa chẳng chao nghiêng Quảng Nam, ”Nghĩa hội” chuông rung Đình Hội đó, Tự Như đây Có ông Nghè Nguyễn Xuân Ôn Bắc Kỳ, Tạ Hiện cựu quan
Hay việc rắc rối, lôi thôi Paris phe “muốn“, phe “không”
Đồng Khánh ở Huế đăng cơ Nghệ An, Thanh Hóa ra uy Quảng Bình, vua ở đã lâu ”Trung quân” chẳng biết về đâu Có câu: “Cây đắng, trái lành” Mignot chia đánh hai đàng
Quan văn tên gọi Paul Bert Đồn điền điều lệ, chủ trương:
(5-10 Đinh Tuất) Nam Kỳ, thống đốc là trên Chương XV: VIỆC ĐÁNH DẸP
Trung Kỳ nghĩa đảm trung can Bắt Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền
Quảng Bình, Đồng Khánh ra đi
Quảng Bình: Paul Bert, Đồng Khánh bàn nhau: Tôn Thất Thiệp, Nguyễn Phạm Tuân
Triều đình lỡ vận sa cơ Quảng Bình, Mouteaux ra phong Lê Trực trung – ái hai đàng Lê Lộc giữ dạ trung cang: Thuốc phiện hối lộ chỉ đàng Để cho tên Ngọc âm thầm
Tháng giêng, Mậu Tý, quân Tây Minh Cầm, nó vốn bình sinh Hai tên lĩnh mệnh mà đi Hàm Nghi thấy phản, truyền lời: Lễ Vương, Pháp lấy đãi Người Trương Quang Ngọc, Nguyễn Đình Tình Tôn Thất Đạm thấy chẳng xong Thư cho thiếu tá vuông tròn Lê Trực cũng chẳng hổ ngươi Quảng Bình, quê cũ về làng
* Đồng Khánh Mất (25-1-Mậu Tí 1888) Khâm sứ Huế chợt nhớ ra: Dục Đức lớn tuổi lên ngôi Nhớ cảnh Dục Đức xót xa Nguyễn, Trương: Phụ chính đương trào
Thiên Tân hòa ước hiệp thương Văn Thân – Đốc Tít ra hàng Hoàng Hoa Thám chiến khu đây
Non sông tưởng nhớ anh hùng Hương Khê, Hà Tĩnh quê cha Vốn người thao lược, văn hay Đình Nguyên vùng vẫy Hương Khê Đình Nguyên Ngự sử mất rồi
Pháp đô hộ, dân lầm than Bắc Kỳ, ”Nghĩa Thục Đông Kinh”. Hà Nội, đầu độc Tây lang Việt Nam tình cảnh thảm thê Chương XVI
thành đất nhượng địa:
Công việc bảo hộ đã xong Binh hai sắc lính đã phân: Hành binh, đường sá, thông thương Cam Môn, Cam Cát, Trấn Ninh Tiêm La hòa ước phải làm Đinh Dậu, Rousseau ra đi Canh nông, công nghệ mọi miền TỔNG KẾT Việt Nam tấm sử công tư Tương lai hay dở về đâu Văn hóa ta kém chi ai Điều nên cần tránh tiêu pha Thái lai, bỉ cực hưng vong Ai người nhớ nước, thương non CHUNG
Quyển I: Thượng cổ thời đại Quyển II: Bắc thuộc thời đại Quyển III: Tự chủ thời đại Quyển IV: Tự chủ thời đại Quyển V: Cận kim thời đại |
Bạn phải đăng nhập để bình luận.