HUYỀN THOẠI HOA TI-GÔN

Phần 1 – 1

Chuyên luận Nghiên cứu – Lý luận – Phê bình Văn học

Lời giới thiệu
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm có một tác giả tạo ra nhiều huyền hoặc, mâu thuẫn nghịch lý nhưng đầy hấp dẫn, lôi cuốn độc giả ngưỡng mộ, thêu dệt như trường hợp nhà thơ Thâm Tâm. Những hiểu biết mập mờ về Thâm Tâm và tác phẩm của ông trên những trang sách với nguồn tư liệu để đời bao dấu hỏi, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn khi đưa ra một tiêu chuẩn đánh giá thống nhất về vị trí của Thâm Tâm trong nền văn học. …
Gia tài văn học mà Thâm Tâm để lại cho hậu thế quả khiêm tốn về số lượng. Thế nhưng, số giấy mực mà người đời sau viết về ông thì lại cực kỳ đồ sộ. Chỉ riêng việc thống kê những huyền hoặc, thêu dệt mà các tác giả với chủ đề “Thâm Tâm – T.T.Kh” đã gởi vào cánh đồng văn học, là cả một công việc mất nhiều thời gian và công sức. Suốt hơn nửa thế kỷ qua, bí mật xung quanh Nhà thơ Thâm Tâm và Huyền thoại T.T.Kh vẫn là thách đố lớn và hấp dẫn nhất với các nhà phê bình cũng như bạn đọc yêu mến ông. Ngoài thi phẩm tuyệt bút “Tống biệt hành” đã, đang và sẽ không ngừng được khám phá giải mã, thống nhất về mặt văn bản mà còn nhiều bí ẩn liên quan đến ông, đến sự nghiệp sáng tác của ông. Những thắc mắc ấy, đến nay, chúng ta cũng chưa có lời giải cuối cùng, ngõ hầu làm sáng rõ một sự thật: ông có phải là tác giả của toàn bộ những bài thơ mang tên ông hay không? Ngược lại, nhiều bài thơ được ký tên người khác liệu có hoàn toàn không dính dáng đến ông? Những câu hỏi như vậy không dễ trả lời trong khi thời gian cứ mỗi ngày một trôi qua, người trong cuộc cũng đi về nơi xa khiến khả năng tiếp cận sự thật càng khó khăn gấp bội. Nhưng đấy mới chính là sự hấp dẫn của mọi đề tài nghiên cứu về Thâm Tâm mà cuốn sách chúng tôi sắp nói đến là một bằng chứng điển hình.
Trong số những bí mật xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của Thâm Tâm, bài thơ “Hai sắc hoa Ti-Gôn” gắn với ẩn danh T.T.Kh được coi như một huyền thoại văn chương. Nó là nguồn “cá tháng tư” cho những phỏng đoán, thêm thắt của người đời sau. Hàng trăm thắc mắc trong quá khứ vẫn còn treo lơ lửng thì hàng trăm câu hỏi hiện tại khác lại được đặt ra. Tựu trung lại, người ta muốn biết T.T.Kh là ai? Nam hay nữ? Nhân vật có thật hay được hư cấu? Nếu là thật thì cuộc đời sau đó của T.T.Kh ra sao? Nếu là nhân vật thật thì tại sao có quá nhiều mâu thuẫn trong chính tác phẩm của mình? Còn nếu là nhân vật hư cấu thì ai là tác giả? Tại sao phải lấy bút danh ký tự T.T.Kh? Với mục đích gì? Phần lớn những mối quan tâm ấy chỉ là do hiếu kỳ mà các tác giả đã viết về nó tưởng chừng như để thỏa mãn mọi thắc mắc độc giả, muốn giải mã đáp số văn học T.T.Kh mà nhiều khi chính mình cũng vô tình góp thêm vào sự thêu dệt khi những dẫn chứng đưa ra không khớp với thời gian, cá nhân được chỉ chứng lại xa lạ với người trong cuộc.
Nhưng với giới nghiên cứu văn học thì mối quan tâm không chỉ dừng lại ở đó. Ngoài vấn đề lịch sử, việc giải mã bí ẩn T.T.Kh còn là câu chuyện của khoa học: Khoa học văn bản, khoa học về thi pháp, khoa học về ảnh hưởng của những yếu tố ngoại cảnh đến tư tưởng và sự nghiệp của nhà văn và cuối cùng chính là khoa học về thân phận nghệ sĩ trước thời đại. Tức Thời đại – Con người – Tác phẩm không thể tách rời. Chính từ nhu cầu khách quan đó, hàng trăm công trình nghiên cứu về Thâm Tâm ra đời như đã nói ở phần trên. Mỗi công trình lại gây ra một cuộc tranh luận thú vị nhưng không tránh khỏi càng làm cho việc giải mã trở nên mù mờ. Giá trị văn học cũng như vị trí nhà thơ được truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007 như Thâm Tâm càng ngày tầm thường hóa tiểu sử, dung tục hóa thi ca. Sở dĩ như vậy, trước hết là vì người viết chưa đưa ra đủ những căn cứ thuyết phục, thiếu tư liệu hoặc tư liệu bị làm sai lệch vì nhiều nguyên nhân… trong khi lại áp đặt nhiều ý kiến mang tính suy diễn chủ quan, thậm chí là võ đoán. Vì thế, hình như bạn đọc và giới nghiên cứu vẫn chờ có một tác phẩm công phu hơn, khoa học hơn, tâm huyết hơn, thuyết phục hơn để có thể yên tâm khép lại vấn đề. Chúng tôi hy vọng đang giới thiệu một công trình như vậy: “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” của Ngọc Thiên Hoa.
Trên văn đàn, Ngọc Thiên Hoa được biết đến như một cây bút nữ đa tài trên nhiều lĩnh vực: Thơ, Truyện, Tiểu thuyết, Kiếm hiệp, Biên khảo, Lịch sử, Trào phúng, Truyện cười, Ngụ ngôn, Phê bình, Tiểu luận, Văn tế, Nhạc, Nhíếp ảnh, và cả Họa nữa. Tác phẩm phê bình, tiểu luận gần đây nhất: “Nhìn lại bến bờ I” khiến bạn đọc lại một phen ngạc nhiên không chỉ về khả năng làm việc của tác giả mà đáng nói hơn là về sự mới mẻ, táo bạo mà chị góp cho nền phê bình nước nhà. Cuốn tiểu luận lập tức nhận được nhiều ý kiến từ giới chuyên môn. Nhiều sự đánh giá khác nhau như bất cứ cuốn sách nào đáng đọc nhưng tựu chung lại, hầu hết đều ghi nhận Ngọc Thiên Hoa đã nỗ lực thổi một luồng sinh khí mới vào lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn học khiến mảnh đất đang khô cằn, lắm đá sỏi này trở nên tươi tắn, hấp dẫn và đầy sức sống hơn.
1Tiếp tục nỗ lực đáng quý đó chính là “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” mà chúng tôi đang nói tới. Trước hết, chúng tôi ghi nhận đây là một trong những công trình nghiên cứu văn học đầy tính khoa học, tràn ấp tâm huyết và cực kỳ công phu của Ngọc Thiên Hoa. Có thể nói, đây cuốn sách công phu nhất trên nhiều phương diện nghiên cứu một tác giả nổi tiếng với “Tống biệt hành” và nghi án văn chương gắn với ẩn danh T.T.Kh. Điểm đáng chú ý nhất và có lẽ là điểm độc đáo của cuốn sách chính là cách thức sưu tầm và xử lý tư liệu lịch sử. Chỉ riêng về mặt cung cấp tư liệu, cuốn sách này là cuốn tư liệu tham khảo rất cần cho nhiều người. Nhưng không dừng lại ở đó, Ngọc Thiên Hoa đã qua mặt các đàn anh, cha chú đi trước khi thay vì liệt kê đơn thuần, chị đã làm một cuộc tổng sàng lọc, truy tầm gắt gao những sự thật bị khuất lấp bởi thời gian và bởi trăm ngàn lý do khác. Tác giả sử dụng mọi khả năng mình có để làm điều đó. Bạn đọc sẽ được chứng kiến một cuộc điều tra thú vị mà đối tượng bị điều tra là… lịch sử. Đó cũng là những trang hấp dẫn nhất của cuốn sách. (Ưu điểm dễ thấy nhất của cuốn sách này là sự hấp dẫn). Tại đó, tác giả muốn tìm sự thật về nguồn cung cấp thông tin của các cuốn sách bậc cha chú nên đã mạn phép yêu cầu các tác giả nên trình ra những tư liệu gốc. Tư liệu gốc theo yêu cầu của Ngọc Thiên Hoa không phải là mới mẻ nhưng rất cần thiết để minh chứng mọi sự việc liên quan tới cuộc đời tác giả, “khai sinh” một tác phẩm mà chúng ta thường hay bỏ qua hoặc ghi chú cho có là. Cách thức mà tác giả sử dụng để minh chứng khẳng định hoặc so sánh đối chiếu bằng văn bản để phủ định, thực sự đáng ghi nhận và đáng để bàn luận theo một chiều hướng chân thiện mỹ. Vì thế, có thể chỗ này, chỗ khác người đọc cảm thấy “tiếc rẻ” khi nhiều điều từng trở thành huyền thoại ngọt ngào nay đã không còn mờ ảo và được và phơi bày trên từng trang sách với các sự thật nhuốm màu cay đắng.
TTKh là ai? Tác giả thẳng thừng bác bỏ những giả thuyết liên quan đến một nhân vật phụ nữ có thật mà khẳng định nó là sản phẩm của một màn kịch đầy bi thương nhưng cũng rất thú vị, trong đó nhiều người thủ vai một người và một người thủ vai nhiều người. Nếu ý kiến của tác giả là đúng thì chúng ta cũng sẽ phải lên sân khấu văn học để nói lời kết, rằng kịch vừa là đời sống vừa không phải, vừa của trí tưởng tượng vừa không phải. Còn hơn cả một thách thức táo bạo nhất mà chỉ những người có bản lĩnh cao cường mới dám đặt ra và dám chơi tới cùng. Ngoài điều đó ra, cuốn sách cũng nỗ lực làm sáng tỏ nhiều chuyện, cung cấp cho độc giả một khối lượng tư liệu và kiến thức lịch sử, kiến thức văn chương đồ sộ, một bảng chỉ dẫn tỉ mỉ, đáng tin cậy nhằm đến những căn bản nhất của các sự kiện. Khi khép sách lại, bạn đọc không khỏi không ngậm ngùi trước lòng thương cảm, sự  ngưỡng mộ của tác giả với một tài hoa thơ gặp nhiều lận đận trên đường đời và tình trường là Thâm Tâm. Ngọc Thiên Hoa đã cố gắng trả lại cho Thâm Tâm một gương mặt thật vốn vẫn mờ ảo trong huyền thoại và những uẩn khúc của thời gian. Đó vừa là mục đích xuất phát từ nhu cầu thẩm mỹ và lương tâm, vừa là đòi hỏi khắt khe của sự thật: Không thể cắt xén nhưng cũng không được tùy tiện thêm vào gia tài của một tác giả văn chương. Cả hai việc làm đó, theo Ngọc Thiên Hoa đều là sự xúc phạm không thiện chung với một tác giả, độc giả và đánh lừa lịch sử. Xuất phát từ mục đích cao cả trên, “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” xứng đáng là một công trình khoa học đồ sộ và xứng đáng nhận được sự trân trọng, cũng bằng một tinh thần khoa học.
Về nguyên tắc tiếp nhận văn bản, chúng tôi đồng ý với tác giả giữ nguyên nội dung các bài, đoạn trích dẫn các tác giả khác trong cuốn sách này. Mọi sự góp ý chân thành của bạn đọc sẽ là nguồn động viên cho chúng tôi, cho tác giả tiếp tục xuất bản các cuốn khác trong thời gian tới mỗi ngày hoàn thiện hơn, xứng đáng là món ăn tinh thần cho bạn đọc trong những tháng ngày buồn vui ấm lạnh của cuộc đời.
Cuối cùng, chúng tôi xin được trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc: “Huyền thoại hoa Ti-Gôn”…
                                                                                    Hà Nội tháng 11- 2008
Ban biên tập
3LỜI MỞ:
“Huyền thoại Hoa Ti-Gôn“: Huyền thoại về một loài hoa tim vỡ, tượng trưng cho những cuộc tình chia ly một đi không trở lại…
T.T.KH:
Cuốn “T.T.KH nàng là ai?” chỉ chứng Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh của Thế Nhật được nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin tung ra năm 1994 và 2001 chưa xoa dịu hết những bực bội cho người trong cuộc: Thanh Châu và Vân Nương thì cuốn “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” của Trần Đình Thu lại được nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn chắp cánh lên trời năm 2007.
Như ong mật thích đi tìm hương hoa, như tằm ăn dâu nhả tơ cho người lụa, như nắng nhạt nằm trên cây góa bụa, tôi là kẻ… chanh chua trong văn học bốn mùa. Mây trời ấm sợ tan trong cơn gió. Con mọt sách tôi nào biết chữ “no” gì!
Tôi lật lại giai đoạn 1937 – 1938 của T.T.Kh và Thâm Tâm. Thơ T.T.Kh có nhiều mâu thuẫn. Thơ Thâm Tâm đầy những nét ngờ. Tôi lạn qua cuộc đời Thâm Tâm và nhóm bạn “Áo bào gốc liễu” để nhận dạng tiếng thơ. Tôi rà trong đám bạn bè Thâm Tâm để tìm ra thi pháp. Tôi mở sách Nguyễn Thạch Kiên. Ngút ngàn điều cần giải. Tôi lần từng trang hai cuốn sách Thế Nhật. Rừng tắt ánh mặt trời. Tôi tìm vào sách Trần Đình Thu. Âm u sương mù một cõi!
Tôi đọc những lá thư Trần Thị Vân Chung, tìm coi có chút gì là giải mã? Tôi đọc thư Thư Linh. Thư viết loanh quanh. Tôi lần vào chốn thơ Vân Nương, coi có gì ngờ để cho là y… Thị?
So sánh đã làm. Đối chiếu cũng xong. Dò tìm cũng khối. Liên lạc tùm lum. Mail đi tứ xứ…
T.T.Kh có phải là Trần Thị Vân Chung? Là ai nữa, cũng như bao huyền thoại, loài hoa Ti-Gôn là có thật trên đời!
THÂM TÂM – “TỐNG BIỆT HÀNH”:
Một bài thơ nhiều ẩn số văn học. Những ẩn số vô danh giải đến muôn đời!
Tôi tìm về dòng sông đưa tiễn người của Thâm Tâm. Nhận thấy người đi chẳng phải bạn chiến trường. “Ly khách” là ai? Bao người đã tưởng tượng? Người mẹ can trường, chồng vắng, đảm nuôi con. Tôi bàng hoàng trong một thoáng rưng rưng… Sự “dửng dưng” kia là quên đi dĩ vãng. Tôi chìm dưới hoàng hôn lãng đãng… Hoàng hôn Thâm Tâm  “Hoàng hôn trong mắt trong”,cặp mắt vô hồn chẳng thể gởi phường… đực rựa. Thế là tôi đi nữa…
Tôi đi về quá khứ của Thâm Tâm với “chiều hôm trước” để biết nỗi buồn kia phát xuất tự lúc nào? Trời mùa thu có vô vàn cách giải. Có vô vàn kỷ niệm của thi ca. Tôi tìm về với một “sáng hôm nay” để nhận ra người ra đi, đó chính là… “người ấy“…
Tôi lội xuống đầm sen bao la để nhớ… “Trong đầm gì đẹp… “. Nét đẹp của sen vẹn toàn và rực rỡ. Thâm Tâm nỡ nào gán hai chị “già nua”! Trên trang giấy học trò, thầy vẫn dạy vu vơ… Hai người chị đến giờ sen “tàn tạ”!?
Thâm Tâm giấu nỗi lòng trong chiếc lá. Chị với “dòng lệ sót“, đã khuyên em… Người mẹ, người em, người chị của trang thơ. Là hư cấu cho người bao dấu hỏi? Tiễn lòng mình với bao nhiếu nhức nhối, với bao nhiêu kỷ niệm cũng đành thôi! Tôi suy nghĩ về “chiếc khăn tay” em gái. Nó đã hóa thành kỷ vật của người yêu? Thâm Tâm nỗi lòng đầy ấp với hai chiều. Người khó hiểu chỉ vì không chịu hiểu.
“Chiếc lá bay, là  hạt bụi, hơi rượu say”. Những hóa thân khẽ khàng lăn theo bước. Những lắng động của một “chiều hôm trước“. Thành bạn đường “ly khách sáng hôm nay“…
Vậy ngày xưa, Thâm Tâm đã yêu ai? Nhiều cách diễn tầm thường thơ ẩn dụ. Những hóa thân đã tan vào sương núi. Nỗi lòng “chiều hôm trước” phải đành quên! Người ra đi là ai? Là ly khách? Ly khách là ai? “Ngươi” của “sáng hôm nay”. Không phải nhà thơ Lương Trúc –  Phạm Quang Hòa. Cũng chẳng phải là tên Viễn nào như Ngọc Giao dệt tưởng…. Chỉ tiễn lòng đi mới hoàng hôn đầy mắt… Tiễn nỗi lòng mình, nhân vật chính… Thâm Tâm!
Thể Hành:
Tôi nhiều chuyện lật sách Đường Thi. So sánh Thể “Hành” có gì khác biệt? Chẳng có gì gọi là bí ẩn. Chỉ là khúc ca cuộc đời bằng chữ Hán mà thôi!
Tôi đi vào “Hành” của 19 nhà thơ. Đề tài “Tống biệt” với 64 nhà thơ khác…
Biển văn học thơ Đường, chao, bát ngát. Cánh diều tôi, gió sắp bạt rơi rồi!
Tự kỷ:
Con ong mật đã làm nên ổ mật. Tham lam cũng coi chừng… ong chích mà đau. Tôi giơ búa nhưng lòng không nỡ… giáng! Vườn văn học rộn ràng xấu, đẹp cũng là hoa. Ngẫm suy:
Văn kỳ thanh, bất kỳ hình”
Nắng thu hé mở bình minh chút nào?
Chưa coi, ai biết ra sao
Ti-Gôn Huyền Thoại, mời vào… đọc chơi!
Tháng 10/2008
Ngọc Thiên Hoa
(Viết xong  Phần I, tháng 5/2005. Thêm tư liệu 2007. Hoàn chỉnh phần II tháng 10/ 2008).

Một số từ viết tắt:
Tác giả: Thâm Tâm (TT), Trần Huyền Trân (THT), Nguyễn Bính (NB), Đinh Hùng (ĐH), Vũ Hoàng Chương (VHC), Hoài Thanh – Hoài Chân (HT – HC), Nguyễn Tấn Long (NTL), Nguyễn Đức Trọng (NĐT), Tôn Thảo Miên (TTM), Hà Bình Trị (HBT), Nguyễn Hữu Đảng (NHĐ), Trần Hữu Tá (THT), Mã Giang Lân (MGL), Trần Đình Sử (TĐS), Lê Tiến Dũng (LTD), Trần Đăng Xuyền (TĐX), Chu Văn Sơn (CVS), Vũ Quần Phương (VQP), Nguyễn Hưng Quốc (NHQ), Nguyễn Thạch Kiên (NTK), Trần  Đình Thu (TĐT)…
Tác phẩm: Tống biệt hành (TBH), Hai sắc hoa Ti-Gôn (HSHTG), Bài thơ thứ nhất (BTTN), Bài thơ cuối cùng (BTCC), Đan áo cho chồng (ĐACC),  Thi nhân Việt Nam (TNVN), Văn thi sĩ tiền chiến (VTSTC), Thi nhân Việt Nam hiện đại (TNVNHĐ), Việt Nam thi nhân tiền chiến (VNTNTC),  Việt Nam thi nhân tiền chiến – toàn tập (VNTNTCTT), Về những kỷ niệm quê hương (VNKNQH)…
HUYỀN  THOẠI  HOA  TI-GÔN – PHẦN I.
Đời có những điều trắc trở. Tình yêu có những ngã rẽ bất ngờ. Như thế là có những tình ca cho cuộc tình ở lại, cuộc tình đã đi xa. Bản ”Tình xa” của Trịnh Công Sơn với ”Ngày tháng nào đã ra đi… cuộc tình nào đã ra khơi…” đã là ngã rẽ bất ngờ đệm đàn cho một thi khúc ”Tống biệt hành” (TBH). TBH của TT cùng ”Hai sắc hoa Ti-Gôn” (HSHTG) của T.T. Kh đã trở thành huyền thoại trong văn học Việt Nam.
Bút danh T.T. Kh có liên quan đến TT. Đề cập TT là nói đến TBH. Cũng vậy, khi ta nhắc đến HSHTG là nghĩ đến T.T. Kh. Vậy, TBH với  HSHTG… có liên quan gì qua từ mang tính cách ám thị ”Người, Người ấy” trong những thi phẩm đặc biệt này?
THÂM TÂM – NGUYỄN TUẤN TRÌNH
                                    (1917 – 1950)
A. THỜI ĐẠI – CON NGƯỜI VÀ THI PHẨM:
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) kết thúc, Pháp nằm trong danh sách nước thắng trận nhưng nợ Mỹ ngập đầu. Nợ sâu thì bấu nặng. Pháp phải dùng dự luật ”Khai thác thuộc địa” năm 1921 vào ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). Cuộc khai thác này đã sản sinh ra tầng lớp tiểu tư sản, tư sản và làm phá sản giới thợ thủ công.
Nguyễn Tuấn Trình xuất thân từ gia đình tiểu tư sản mà bố là giáo viên. Cách mạng tháng Tám thành công, những chàng trai mới lớn không ”bỏ văn chương học võ biền” như Tú Xương mà cùng Chính Hữu “vác trăng vàng treo trên đầu súng”. Người Vệ quốc quân TT ấy đã một lần ra đi không hẹn ngày trở lại vào năm 1950 tại Cao Bằng lúc chiến dịch biên giới Thu – Đông bùng nổ…
TBH vượt qua mọi thời đại cùng tên tuổi của Thâm Tâm – Nguyễn Tuấn Trình đi vào lòng người và dòng thi ca Việt Nam có thêm một thi phẩm bất hủ.
I. TBH qua cách nhìn của các Giáo sư, Tiến sĩ và giới Nghiên cứu văn học:
  1. TBH với Hoài Thanh – Hoài Chân (HT- HC) trong ”Thi nhân Việt Nam” (TNVN):
Cuốn TNVN được coi là cái ”nền” khi ai đó muốn tìm hiểu về những người thi nhân của thời xa xưa ấy. Vì xa xưa cho nên có những lời nhận xét cần được xem lại, những thi nhân cần được hiểu thêm để đánh giá, trả họ về đúng vị trí. Với những ”nhận xét, đánh giá” cần coi lại đó, giới nghiên cứu, phê bình, bình luận trong tay có ”cái roi ngựa” của Ts. Lê Tiến Dũng cũng không dám ”quất” vào dù chỉ là ”quất cho có”!
Với 67 từ vỏn vẹn, HT- HC dùng để giới thiệu thi phẩm TBH: “Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài thơ dưới đây lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (sđd tr 275).
Nhận xét trên có nhiều từ ngữ cần bàn:
– “Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển”: Không hề có. Nhịp thơ vẫn êm đềm, uyển chuyển với: 2/3/2 (Đưa người/ ta không đưa/ qua sông… chuyển sang  2/2/3 Bóng chiều/ không thắm/ không vàng vọt), qua 2/2/3Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ) tới hết!
Bài thơ TBH ngược lại với cách nhận xét của HT – HC. Hầu hết các Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà Nghiên cứu lại xem đó như ”kim chỉ nam”, là ”cẩm nang” khi viết bài về TBH. Họ quên mất TBH sở dĩ gia nhập làng ”Thơ Mới” muộn màng nhưng lại có sức sống, tiếng vang là vì cái gì nếu không có giá trị hiện thực và hình tượng? Người ta cũng quên đi loại thơ tình cảm lấy nước mắt, xé lòng độc giả làm sao có cái giọng điệu ”rắn rỏi, gân guốc”!
Nhận xét này của HT – HC dùng cho những bài văn, thơ tuyên truyền, cổ động như bài ”Á tế á ca” của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh (Mười chính sách của Việt Minh, Bài ca dân cày, nông dân, binh lính, phụ nữ… Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập…) thì chính xác hơn!
TBH đúng là thơ viết cho nhạc theo dòng trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng chứ không phải hùng dũng như nhạc ra trận. Những nhạc sĩ phổ thơ TBH theo lời nhận xét của HT- HC làm bài thơ chuyển nhạc đượm “gân guốc”, “gấp, rắn rỏi”, “gắt” đều làm bài TBH “xuống cấp” hay được “nâng cấp”, chúng ta có thể nghe bản nhạc TBH qua nhạc sĩ gạo cội Trầm Tử Thiêng với dàn nhạc công tài ba và giọng ca loại một nhạc tiền chiến: Khánh Ly (vnthuquan.net/nhac) hay Thanh Trang phổ nhạc TBH (đổi rất nhiều từ) với giọng ca Quang Tuấn (khanhly.net/phoxua) thì sẽ đánh giá được ngay.
– HT- HC cho rằng TBH ”Vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”. Nhận xét này cần thay lại từ ”thời đại” bằng ”thi phẩm” thành “vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thi phẩm”. Bởi lẽ, ”mây có cụm, gió có nguồn”. Thời đại lúc ấy đã quá rõ ràng: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) bùng nổ. Cuộc chiến với thời ly loạn có gì ”khó hiểu”! Thời buổi giao mùa Tây – Tàu lẫn lộn nên ông Đồ già của Vũ Đình Liên đang cô đơn trong thế giới cực kỳ thê thảm ”Giấy đỏ buồn không thấm. Mực động trong nghiên sầu”thì tầng lớp tiểu tư sản có sự chọn lựa nào khác hơn? Không vào quân đội như TT, Quang Dũng thì làm cánh chim lìa đàn như Nguyễn Bính, Vũ Trọng Cang…
Tôn Thảo Miên (TTM) trong “Từ điển tác giả, tác phẩm” (Nxb ĐHSP – 2004, tr 662) đã vận dụng câu cẩm nang này và lý giải cái “khó hiểu” của TBH: “Sự ‘khó hiểu’ đó phải chăng là sự giãi bày tâm trạng của một người có tình yêu thiên nhiên, đất nước, có niềm tin và tình cảm yêu mến đối với bạn bè, đối với những những chiến sĩ cách mạng phải hy sinh vì việc lớn, nhưng trong hoàn cảnh đất nước bị thống trị, ông không thể tự do bộc bạch tâm trạng mình”.
Trần Hữu Tá (THT) trong “Từ điển văn học – Bộ mới” (Nxb TG – 2004, tr 1641) lý giải tương tự: “‘Khó hiểu’ là vì trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân thống trị, nhân dân mất tự do nên nhà thơ không thể nói rõ tâm trạng thật: ‘lòng yêu nước sâu kín, tình cảm mến trọng những người chiến sĩ cách mạng đã từng bí mật đi về nương nấu tại gia đình ông và bị giặc bắt bớ tù đày’”.
Có khác gì bài viết học sinh được “gà” trong các cuộc thi nếu không nói “đạo ý tưởng”!
Trở lại TBH, HT – HC viết: ”nhưng bài thơ ấy làm sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ”. Nhận xét này làm cho các nhà nghiên cứu phải mở lại những trang sách thời Đường của Trung Quốc với những bài  thơ cổ nổi tiếng theo thể ”Hành”: Từ Hành của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đến Hành của Việt Nam với Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Tuấn Khải… Ðây là một ý hay.
Khi HT hạ bút: ”Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong” thì cũng nên xem lại. Thật ra, thơ thất ngôn cổ phong và thất ngôn ta không khác nhau gì mấy nếu nói về nghệ thuật (thể thơ 7 chữ). Nó cũng chẳng khác bao nhiêu về nội dung với những tính ước lệ, tượng trưng, điển tích… Có khác là khác ”chất Việt Nam” hiện đại hơn một thời gian nghìn năm trước đó cùng đề tài. Nếu thơ cổ thể chuộng cái ‘‘thực” thì thơ Việt Nam thời ly loạn  thích cái ‘‘mộng’‘ dẫn tới chẳng bài nào giống bài nào dù cùng một đề tài ”Tống biệt” (Xem phần 16 nhà thơ Ðường và các nhà thơ Việt Nam với đề tài ”Tống biệt” sau).
Tuy nhiên lời nhận xét của HT – HC về TBH ”khó hiểu” về nội dung là không sai. Thi phẩm này vẫn khó hiểu cho đến muôn đời và những ai từng nghiên cứu về một thời đại trong thi ca vô cùng cám ơn về lời nhận xét trên. “Kính lão đắc thọ”, các Giáo sư, Tiến sĩ, những Nhà Nghiên cứu văn học không ngần ngại mang 67 từ nhận xét của HT – HC ”chặt khúc” ra rồi tùy theo khả năng mà truyền lại cho giáo viên, học sinh và độc giả với mức độ thành công khác nhau.
2. TBH với Lê Tiến Dũng (LTD) trong“Giờ văn ngoài lớp” –  Nxb Trẻ:
Bài viết này, tác giả sau khi phân tích xong đã nhận định: ”Chỉ một Tống biệt hành cũng đủ để đóng dấu tên tuổi ông vào thi ca một thời”. Nói như vậy, thời chúng ta, TBH có còn giá trị là một bài thơ hay nữa không? Tất nhiên, không phủ nhận LTD có những câu nhận xét đúng theo thi phẩm với cách hiểu phổ thông, học đường: ”Bài thơ tống biệt có kẻ ở người đi. Người ở mà lòng xao xuyến tái tê, kẻ đi cũng đau đớn trĩu lòng”.
Với lời người ra đi, LTD viết: Nhưng dù sao người ra đi vẫn quyết chí lên đường để thực hiện chí lớn của mình chứ chất định không chịu ở trong cảnh ngột ngạt tù túng. Cái chí quyết tống biệt ấy làm cho bài thơ thật giàu chất lãng mạn.”  Cái ”giàu chất lãng mạn” phải là cái ướt át của thơ ca có mây, có nắng, có gió, có bình minh, có chiều tà, có mùa gọi mùa qua từng lời bỡ ngỡ… thì làm sao mà ”gân guốc, rắn rỏi” như HT – HC nói hay trầm hùng, bi tráng” như LTD bảo?
Người đọc thật sự ngỡ ngàng khi phải xoáy sâu vào cái ”chí lớn”, cái ”ngột ngạt tù túng” chưa có căn cứ, chưa thật rõ ràng để trả lời câu hỏi ”ngột ngạt, tù túng” vì cái gì? Xã hội hay thời đại hoặc chế độ mang lại? Bởi vì, nhân vật ra đi trong TBH của TT cũng như Dũng trong ”Đoạn tuyệt” của Nhất Linh chẳng biết định hướng con tàu mình đi đâu, về đâu? Cái chí ”quyết tống biệt” mơ hồ ấy có phải là ý thật của bài thơ có nhiều đối lập, nhiều sự dằn vặt buốt người này? Tống biệt cái gì? Ðưa tiễn ai? Ai là người đi? Người nào là kẻ tiễn? Tống biệt là tiễn đưa. Quyết tống biệt là quyết tiễn đưa. Nếu nói ”bài thơ tống biệt có kẻ ở người đi”,  chẳng lẽ người đi đủ quyền ngược đời “quyết tống biệt (tiễn đưa) người ở”? Ngược lại, người ở sao lại ”quyết tống biệt người đi?”. Vậy thì LTD đã có chỉ ra ý chính ”quyết tống biệt” của toàn bài rất xác đáng nhưng lý giải người nào là chủ thể quyết định sự ”tống biệt” và ”tống biệt cái gì” thì chưa.
3. TBH với Mã Giang Lân (MGL) trong ”Tuyển tập 450 đề và bài văn’– Nxb ĐN:
Tác giả dẫn giải hai nhà thơ đời Đường: Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ để nêu bật hai đối lập về trường phái lãng mạn và hiện thực nhưng cùng TBH có cái xa xưa buồn với chiều tà, dòng sông, hình ảnh người đi, kẻ tiễn trong TBH đều được hầu hết những tác giả có bài viết về nó liên tưởng đến một điển tích quen thuộc mà MGL chưa nói rõ hơn nguồn tích ở trong bài: Đó là hình ảnh tráng sĩ Kinh Kha được thái tử Đan, người nước Yên đưa tiễn (đi thích khách tên bạo chúa Tần Thủy Hoàng) bên bờ Dịch Thủy. Kinh Kha đã hát hai câu thơ trong tiếng sáo não lòng của Cao Tiệm Ly:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,
                    Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
Bản của Đàm Giang (geocities.com):
Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản
dịch nghĩa:
Gió hiu hiu nước sông Dịch lạnh
Tráng sĩ một đi không trở về.

Bất phục hoàn” hay “Bất phục phản” trong “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” (Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu) nghĩa như nhau. Bản dịch của Nhữ Thành (vnthuquan.net): “Gió hiu hắt, chừ Dịch Thủy lạnh ghê. Tráng sĩ ra đi chừ không bao giờ về“). Nếu tác giả bài viết trên đã đưa điển tích này vào thì cũng nên cung cấp cho nghiên cứu sinh, sinh viên, học sinh những bài thơ có liên quan về điển tích Kinh Kha (“Thích khách liệt truyện” – “Sử ký Tư Mã Thiên“, Nhữ Thành dịch, Nxb VH – 1988). Đó là bài thơ “Dịch thủy tống biệt” chỉ 4 câu của Lạc Tân Vương, “Bài ca sông Dịch” 57 câu của Vũ Hoàng Chương, “Tráng sĩ hành” 36 câu của Á Nam Trần Tuấn Khải cùng đề tài. Đặc biệt trong “Bắc hành tạp lục” phần 3 của Nguyễn Du có bài “Kinh Kha cố lý” (Làng cũ của Kinh Kha) 28 câu có dẫn nguyên câu “Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn” như trên. Cũng vì mắc vào lý giải cho được cái lý do Kinh Kha ”ra đi” của ”ly khách”trong TBH mà MGL đã cho qua cái chất buốt lòng của người ra đi, quên mất cái phần sắc màu lãng mạn cần phải có của thi ca mà LTD có đề cập. Bởi cảm nhận chủ quan chưa chín nên MGL sa vào sự áp đặt đáng tiếc. Tác giả viết: ”Đến lúc biết được đường lối cứu nước của Việt Minh thì Thâm Tâm đã bày tỏ lòng mình với người ra đi vì việc lớn” !! MGL còn khẳng định đó là người chiến sĩ ra đi vì ”việc lớn” qua từ ”ly khách”!! Thật ra, thi phẩm TBH tính luôn cả đoạn cuối bị cắt bỏ có 26 câu thì đâu có từ nào ẩn ý ”chiến sĩ”hay ”Việt Minh” gì?
Phân tích, bình thơ, dĩ nhiên, tác giả có quyền liên tưởng, suy diễn. Sự suy diễn, suy đoán phải dựa trên sự cảm thụ sâu sắc, thông cảm, rung động thật sự để mạch cảm xúc đi vào lòng người đọc qua ngòi bút của  mình. Sự suy diễn này cũng không nhất thiết phải giống người khác. Có như vậy, chúng ta nhận được tác dụng tốt cả ba chiều: Tác giả viết – Người sáng tác – Độc giả. Ngược lại, nếu ta sa vào áp đặt, dù mang tính chất vô tư hay lấy lòng đều phản tác dụng nếu không bị coi là ”non tay nghề” hoặc chưa đủ ”công lực”.
Tác giả TBH sẽ buồn lòng khi người bình, phân tích suy diễn hai người chị trong thi phẩm ”Một chị, hai chị cùng như sen” thành những người chị xác xơ, tiều tụy như sen cuối hạ, ”đã khuyên em nhiều, đã khóc nhiều để đến lúc chia tay, các chị cũng chỉ còn vài giọt lệ sót của ly biệt” như một sự áp đặt, diễn xuôi thê thảm các nhân vật mà tác giả hết lòng thương yêu như trong văn bản đã nêu nhưng người đời chưa kịp cảm nhận và chia xẻ.
Càng đi vào cuối bài văn làm dùm cho học sinh luyện thi tú tài, đại học này, độc giả càng mơ hồ vì không hiểu nổi với những cái từ”nguyên âm mở, phụ âm vang” để chống lại ”sự bào mòn của câu chữ quen tay” mà MGL dùng. Nên nhớ thi phẩm này có nhiều dị bản. Nếu bám chặt quá vào ngữ pháp thì phải nên so sánh, đối chiếu và nêu cho được tại sao mình chọn từ này mà không chọn từ khác?
4. TBH với Trần Đình Sử (TĐS) trong ”Giảng văn chọn lọc VHVN– Nxb ĐHQG, HN và trong ”Tuyển tập 450 đề và bài văn” Nxb ĐN:
Mở đầu, tác giả dùng lại từ của HT- HC để nhận xét TBH: ”Giọng thơ gân guốc, rắn rỏi”. Tuy nhiên, khi tác giả cho rằng “Bài thơ buồn nhưng không sụp xuống cũng như dứt khoát, dửng dưng mà không vô tình” thì nội dung bài thơ ca ngợi ”một người giã nhà ra đi theo chí lớn mà vẫn nặng lòng lưu luyến, bịn rịn với gia đình” là một ý sáng. Chỉ có điều, tác giả lý giải dửng dưng mà không vô tình”, đứng về mặt nghĩa từ là chưa chính xác lắm. ”Dửng dưng”: Tính từ có nghĩa là quay lưng, là lạnh nhạt  như trong ”dửng dừng dưng”. Ví dụ: ”Dửng dừng dưng chẳng đoái hoài người ta” tức là ”vô tình, bạc nghĩa” rồi còn gì! Nó khác với sự dễ thương của từ ”vô tình” tính từ chỉ tính cách làm như chả cố ý. Ví dụ: ”Vô tình để gió hôn lên mắt” (nthh) hay ”Em qua đó vô tình mắc nợ” (Thùy Lam – VHTN –  2005).
Vậy, từ ”vô tình” theo nghĩa ”bạc, nhạt, lạt” là mặt trái của từ ”có tình” nên không thể với ”dửng dưng” ngồi cùng một chiếu, đắp cùng một chăn. Hai tính từ chỉ cùng mức độ cùng một nghĩa có lý nào phủ định cho nhau bằng liên từ ”nhưng”. Ví dụ: Không thể nói”buồn nhưng không sầu” hay ”hạnh phúc nhưng không vui vẻ”. Làm gì có kẻ ”dửng dưng” ”có tình” bao giờ? (Nếu dùng trong cách chơi chữ thì hay quá như ”Quạ mà không đen. Mỹ mà không đẹp. Bông hồng mà không hồng. Mù mà không đui. Tóc bạc mà không trắng. Rắn mà không mềm…).
Từ chỗ đây, ta có thể suy ra: Có một con người đang buồn vì buộc lòng phải dửng dưng với một cái gì đó mà mình không muốn. Sự ”dửng dưng” đó là cái gì? Tác giả chưa nghĩ ra nên lại phải mượn nguồn tư duy khác cũng từ suy nghĩ của thực tiễn mà khắc họa nên hình tượng người ra đi. Lẽ ra, ta dùng từ ”hình ảnh” mới đúng.
Hình tượng thông qua ẩn dụ như sự tôn vinh một sự vật, con người có giá trị vĩnh cửu, mang vóc dáng một thời đại, mang ý nghĩa một chân lý, đại diện một tầng lớp người với những khát vọng tương lai.
Ví dụ như hình tượng người: Người chiến sĩ trong ”Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất đã đại diện cho lớp người dám hy sinh vì tổ quốc; hình tượng chị Dậu trong ”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đại diện một lớp người bị áp bức đánh lại kẻ áp bức trong đơn độc; hình tượng Thúy Kiều trong ”Truyện Kiều” của Nguyễn Du là nạn nhân của một chế độ phong kiến đến hồi suy đồi; hình tượng AQ của Lỗ Tấn tiêu biểu cho chủ nghĩa tự mãn của lớp người thiếu tri thức. Hình tượng vật: Năm cầu vòng tượng trưng cho Olympic. Hình tượng cái cân biểu hiện công lý…
Về nhân vật trong TBH, ta chưa thể nói ”hình tượng ly khách” ngay cả! Muốn trở thành ”hình tượng”, trước hết, tác giả phải cho người đọc thấy được ”hình ảnh” ly khách trong bài thơ rồi từ đó nâng cao thành ”hình tượng” cho cả một thời đại.
Đi vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình, ta lại đụng chạm phần lý luận văn học cần phải vững vàng. Phê bình cần lý luận văn học như người viết cần cây bút. Mất cây bút, mười ngón tay có giỏi cũng chỉ được cái nhúng mực vẽ mười con… giun đất như Trạng Quỳnh trong giai thoại mà thôi!
Giáo sư Lê Ngọc Trà trong ”Văn học 12 tập 2” – Nxb GD có viết: Như vậy giữa điều tác giả nói ra và người đọc tiếp nhận không phải lúc nào cũng trùng hợp”. Ta cũng có thể hiểu rằng suy diễn áp đặt cho thi phẩm là vì mức cảm thụ văn học giữa người đọc về tác phẩm đã bị hạn chế trong ”cách cảm thụ văn học thứ hai” của Lê Ngọc Trà ”dẫn đến chỗ hiểu sai lệch hoặc làm nghèo nội dung của tác phẩmdù cách đọc này ”đòi hỏi một trình độ cao hơn”.
Dựa trên lý lẽ đó, TĐS đã ứng dụng vào ”ly khách” trong TBH như thế nào? Tác giả cho đó là một ”người trượng phu” giống như Kinh Kha, như chàng tuổi trẻ” trong ”Chinh phụ ngâm”. Ngầm hiểu như thế là chưa đúng hẳn. Kinh Kha mang trong người một quyết tâm hành thích cho được Tần Thủy Hoàng. Đó là một chí lớn. Chàng tuổi trẻ trong ”Chinh phụ ngâm” ra sao? Hãy nghe Ðặng Trần Côn giới thiệu:
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
              Đầu bút nghiên hề, sự cung đao.
              Dục bả ”liên thành” hiến Minh thánh
              Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu.
(Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt. Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong kiến bệ rồng. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời – Theo bản dịch của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích). Chàng bỏ bút, cầm đao cung để đánh giặc. Đó cũng là một chí lớn. Còn ”ly khách” của TT có “chí nhớn” nào ở đây? Tác giả đã không đề cập, chỉ nói ”chí nhớn chưa về bàn tay không” nên ta cũng chỉ dựa theo văn bản mà ngôn ngữ đã có rồi tự nghĩ ra, lý giải ý của mình sao cho phù hợp dù biết rằng nhiều khi đi đúng ý tác giả cũng chưa chắc đã hay hơn hoặc dở hơn.
Cũng như các tác giả khác, TĐS đã cho hai chị của người ra đi là ”sen cuối mùa hạ” trong khi TT chỉ tả: ”Bây giờ mùa hạ sen nở nốt”! Sự tiễn đưa giữa người đi, kẻ ở giữa bổn phận gia đình và lý tưởng”, tác giả bài viết có đưa ra được nhưng chưa thật sự lôi cuốn độc giả cho lắm nhưng ý này coi như là cái ”phao”. Cái phao này có thể nói là một cách nhìn thông cảm của người viết ”Ly khách đã ra đi trong tình cảm luyến tiếc sâu sa”. Tuy nhiên, TĐS vác ”người trượng phu” vời vợi vào đây làm cho ”ly khách” bé nhỏ kia”gân guốc, rắn rỏi” lên một cách khiên cưỡng làm sao mà phù hợp với ”người ấy” trong đôi mắt ”đầy hoàng hôn” mà thi phẩm đã dựng lên?
Ly khách chỉ là người đi xa. Mức độ giữa những từ: Ðại trượng phu, Anh hùng, Tráng sĩ, Chinh phu thì Ly khách được xếp hạng… em út bởi chưa làm nên tích sự gì cho đời cả. Cho nên, không thể so sánh ”chí nhớn” với những bậc ”cha chú” để nói về hình ảnh ”ly khách”. Tác giả cũng chưa chỉ ra được vì sao người con trai kia cần phải chọn một trong hai là ”gia đình” hay ”lý tưởng”? Người cha ”trụ cột” gia đình đã ở đâu? Giả sử cách giải quyết ”tình nhà” “lý tưởng” vẹn toàn mà thi phẩm có ẩn ý thì ta hãy chọn để thi phẩm thêm được một giá trị cao hơn giá trị đã có mà không phải dằn vặt ai hy sinh cho ai cả. Trên tinh thần này, TĐS có đi qua nhưng không dừng lại.
Tất nhiên, tác giả cũng cố gắng lèo lái người đọc đi từ hình thức nghệ thuật sang nội dung như lối phân tích truyền thống. (Thật ra, cách phân tích ấy cần xem lại vì chúng đi nghịch với cảm xúc) để ca ngợi TBH đã ”gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang”. Ta thấy rằng cái ”ý vị” đó chưa hẳn là vì luật bằng trắc như tác giả quan niệm mà vì nguồn cảm xúc tinh tế, dạt dào, tràn trề của TT mang vào ngọn bút tạo thành những bức tranh ẩn dụ. Khả năng này không phải ai cũng giống nhau.
Hình ảnh Kinh Kha đã không cần thiết khi phân tích, bình luận thi phẩm này với một vài tác giả dưới đây:
 5. TBH với Trần Đăng Xuyền (TĐX) trong ”Giảng văn Văn học Việt Nam” – Nxb GD:
Tác giả cũng như những người khác đều sử dụng ”cẩm nang” của HT – HC làm lời dẫn và cũng so sánh hơi thơ của TBH với hơi thơ cổ: Nói nhiều cái không để tô đậm, làm nổi bật lên một cái có thật là tâm trạng buồn tê tái của con người”. Nỗi ”buồn tê tái”này trong TBH là buồn tê tái của ai? Người đi hay người ở? Chàng hay nàng? Romeo nhớ Juliet hay Kiều ở lầu Ngưng Bích với ”Những nỗi lòng tê tái”? Chịu!
Như các bài viết khác, TĐX đã đi theo con đường này khi sử dụng “gân guốc, rắn rỏi”, với hai người chị thì tàn tạ như sen cuối hạ”.
Phân tích thơ như vậy là tập cho học sinh thuộc lòng bản cửu chương hai mà chẳng động não, tư duy để phát hiện điều gì mới mẻ trong tác phẩm. Có một điều ngạc nhiên là tác giả đã không đưa hình ảnh tráng sĩ Kinh Kha vào đây. Cố ý hay quên thật cũng là điều tốt vì đã nói mức độ lý tưởng của ”tráng sĩ”, chàng ”ly khách” kia còn xa mới với tới và sự ra đi không có mốc tới chẳng cần thiết phải vác hình ảnh Kinh Kha cao vời vợi vào làm gì!
Tiếng nói thầm mở đầu của TBH qua tác giả là ”cực tả tâm trạng xao xuyến buồn tê tái của lòng người lúc chia tay. Dĩ nhiên học sinh (HS) sẽ nắm được các ý này để làm bài:
– So sánh TBH với thơ cổ để thấy sự nổi bật không lập lại khi TBH không dùng dòng sông chia ly như trong thơ cổ. (Ta có thể nói thêm: Dòng sông cũng còn có một nghĩa tượng trưng rất ngậm ngùi là sang ngang. Trong âm nhạc, điều này thể hiện rất rõ qua các ca khúc. Ví dụ như “Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ).
– HS cũng sẽ thấy được cái ”chí lớn” của người ra đi, gạt bỏ hết mọi thứ với sự ”dửng dưng” mà trong đôi mắt u ẩn vẫn chất chứa nỗi sầu ly biệt.
– HS cũng hiểu được hai tâm trạng người đi, kẻ ở với điệu thơ ”rắn rỏi, gân guốc”.
– HS thương dùm hai chị ”tàn tạ như sen cuối hạ”!
(Quái lạ! Cánh mày râu, ai cũng đồng lòng cho phụ nữ khi chia ly đều ”tàn tạ” nhanh chóng. Ai cũng cho sen cuối hạ là sen lụi tàn mà quên rằng ”trong đầm gì đẹp bằng sen!”. Ý đẹp tuyệt vời này trong thi phẩm mà không ai nhìn nhận!? Trong đầm, sen dù đã tàn, chúng ta cũng hưởng thụ được dư vị thoang thoảng của hương vị tinh khiết này).
Thật ra, vấn đề đặt ra trong TBH: Ai đi? Ai ở? Ai đợi? Ai chờ? Đi đâu? Làm gì? Chí lớn? Chí nhỏ? Chị khuyên em trai cái gì? Ai thà? Ai coi ai thà? TĐX cũng như các tác giả khác vẫn đặt nặng và chưa vén được bức màn bí mật. Càng hỏi lắm thì càng có nhiều câu trả lời rối rắm. Thử nghĩ cần hay không cần cụ thể như thế  khi phải đi cặn kẽ tìm vào những sự vật, sự việc mà nhiều khi chỉ là sự hư cấu của tác giả? TĐX thấy được ”nỗi buồn” nhưng lại chưa nêu ra được vì sao ngoài sự buồn vì chia tay gia đình. Tâm lý nhân vật trong TBH đã ẩn sâu trong 2 ý “ngươi buồn chiều hôm trước” và “ngươi buồn sáng hôm nay”. Thời gian này không thể chỉ coi như thời gian hôm nay và ngày mai mà phải coi nó như thời gian của quá khứ và hiện tại. Dứt bỏ được nỗi buồn trong quá khứ, “ly khách” mới có thế có “chí nhớn”. Vậy, nỗi buồn quá khứ là nỗi buồn nào? Không lý giải, chẳng giải quyết được, chúng ta chẳng thể nào giải mã “ly khách” (một giã gia đình) là người hôm nay và “người ấy” (một giã gia đình, một dửng dưng) là ngày hôm qua trong TBH. Trong trò chơi đố chữ: Tìm không ra nghĩa thì người chơi buộc phải “mua nguyên âm”. Trong TBH, tìm chưa ra ẩn số, chúng ta phải “níu áo”: Thời đại và tác giả.
Nếu chia tay với gia đình, người tiễn phải là người trong gia đình chứ sao lại có ”tác giả” tiễn đưa “ly khách” trong gia đình kia đi? “Người ấy” là “ly khách”? Tác giả viết dùm cho tâm sự người bạn mình chăng? Tác giả thi phẩm TBH có phải là người trong gia đình không?
Các ngòi viết phân tích, bình luận trên vì đi theo cách bổ dọc từng đoạn nên tạo ra sự nhập nhằng giữa người tiễn và người đi. Vấn đề nan giải ấy sẽ còn mãi nếu ta cứ đi theo từng đoạn mà phân tích bởi ý đoạn này sẽ nối tiếp ý cho những đoạn, câu khác trong bài mà đôi khi trùng nhau về câu nhưng lại khác ý. Có khi đang xem xét ở đoạn này lại phải mượn câu đoạn khác minh họa. Đó là điểm đặc biệt “khó hiểu” nhất của thi phẩm TBH.
Dưới đây là bài viết đi hướng chẻ đoạn:
    6. TBH với Nguyễn Hưng Quốc (NHQ) (vhvn.com):
Toàn bộ bài bình thật ngắn gọn khi tác giả chỉ trích ngang, minh họa. Tuy nhiên, tác giả có vài chỗ nêu những ý sắc nét nhất là gần cuối bài. Tác giả cũng đồng ý như những người khác cho TBH Có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của thời 30 – 45”. Thật ra, TBH nên được xếp vào danh sách những bài thơ hay nhất cả mai sau.
Thơ hay là thơ của muôn đời chứ không phải bị hạn hẹp bởi bốn bức tường của một giai đoạn. Những bài thơ hay chỉ có thể lớn theo cùng năm tháng, chạy song đôi với thời gian. Chúng không bị cô lập bởi phạm vi tư tưởng của một thời đại.
Muốn đưa TBH vào danh sách ”top” chỉ còn chờ người chạy tiếp sức bước cuối cùng: Đó là công sức của những nhà nghiên cứu, phê bình văn học thực sự.
NHQ đã cho rằng trong TBH có ”hai lời độc thoại của một người đi, một người tiễn” nhưng cũng không biết họ là ai? Hiện nay, những bài viết về TBH mới chỉ ”lượn tròn, lượn khéo” như bướm lượn vườn hoa chưa tìm ra cái ”nhụy”. Đấy mới là ”chút khó hiểu”của thi phẩm chứ không phải ”chút khó hiểu của thời đại’như HT – HC đã nhận định.
Cái ý mới của NHQ là đưa ra thêm một người yêu” đưa tiễn: ”Chị em và người yêu lưu luyến như thế ấy chẳng lẽ đành tâm ra đi?” nhưng chưa chỉ ra được, dẫn giải đâu là hình ảnh người yêu? Rõ ràng, những tác giả dù có trình độ, có sự cảm thụ văn học nhưng khả năng tìm cho ra cái “lõi” của TBH đến nay họ đều chưa có chìa khóa. Điều này chưa hẳn là họ non tay mà chính vì tác giả TBH khéo lẩn núp dưới nhiều lớp ”ngụy trang”, dưới nhiều sắc áo: Mẹ, chị, em, bạn bè… để giấu đi hình bóng ”người ấy” suốt sáu, bảy chục năm qua. Có một điều chắc chắn là vì muốn cho thi phẩm được thương yêu này có thêm giá trị tống biệt nên bài viết nào cũng cố gắng đi tìm nghĩa mới lạ mỗi người mỗi vẻ nhưng ”tư tưởng lớn” gặp nhau không ở con đường lạ mà lại ở con đường… trùng hợp như ta đã thấy ở trên.
NHQ có chút mới khi đưa bốn câu cuối bài thơ đã bị cắt bỏ khi đăng trong TNVN mà Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng dựa theo nguyên bản đăng trên ”Tiểu thuyết thứ bảy” (TTTB) năm 1940 phục hồi trong VNTNTC là một ý hay nhưng tác giả lại đồng ý sự cắt xén đó:
                     Mây thu đầu núi, gió lên trăng
                     Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
                     Ly khách ven trời nghe muốn khóc
                     Tiếng Đời xô động, tiếng hờn câm.
Tác giả nêu lý do cắt bỏ bốn câu cuối vì: ”lạc điệu, lạc thi pháp, lạc giọng, lạc tứ…” đã ”xóa tan hình ảnh nghênh ngang, hào sảng… Biết cường điệu mà vẫn thấy đẹp”, biến ly khách thành nhỏ nhoi, thảm thương” qua hình ảnh ven trời nghe muốn khóc”.Cho nên, tác giả đồng tình với TT hay HT- HC: Cho dù do ai, sự cắt bỏ ấy cũng rất tài tình”.
Tài tình hay không thì sự tự tiện cắt bỏ một văn bản cho theo ý mình là một sai phạm văn học nên tránh. Nếu bốn mùa là của cuộc đời thì văn học không của riêng ai. Cũng có thể vì quan niệm cắt bỏ văn học như bác sĩ cắt bỏ… ruột thừa nên Nguyễn Tấn Long (không còn có Nguyễn Hữu Trọng đứng liên danh nữa) trong cuốn “Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập” (VNTNTCTT) tái bản có sửa chữa (Nxb VH – 2000) đã cắt đứt đuôi con nòng nọc 4 câu cuối của TBH! Điều đó quả không nên đối với sự nghiêm túc, công bằng của người làm văn học với công việc biên tập. Nếu nói thơ “dở”, thơ “dỏm” mà cắt thì hầu như nền thi ca Việt Nam hiện nay, khi đưa vào máy cắt, sẽ chẳng có bài thơ nào tồn tại. Nếu có, chúng cũng không còn nguyên vẹn hình hài cho một bài nào!
Chính vì quan niệm ”cắt bỏ tài tình” ấy đã đẻ ra nhiều văn bản bị tự tiện sửa đổi từ câu đến ý. Thành ra, nếu chúng ta cứ phân tích, bình luận theo nghệ thuật với những biện pháp tu từ thì cần thận trọng: Thi phẩm TBH qua những sao chép không được cân nhắc nên đã có nhiều từ bị đổi ngay cả dấu câu, ngôn từ địa phương… cũng chẳng biết đâu là nguyên bản ngoài cuốn TNVN của HT –  HC hay VNTNTCTT của Nguyễn Tấn Long là cũ nhất. Chẳng trách gì người bình, phân tích lắm lúc đi lệch lạc, đôi khi sa vào phần phụ diễn áp đặt thái quá! Nếu người phụ diễn khá vững vàng về phong cách viết (khả năng cầm bút), giải quyết vấn đề tác phẩm (khả năng rung động) thì mang lại cho đọc giả những cơn mưa mùa hạ, bằng không chỉ mang lại nắng cạn của ngày đông.
Tác giả thứ hai đi theo cách bổ dọc:
7. TBH với Chu Văn Sơn (CVS) trong ”Phân tích, Bình giảng tác phẩm Văn học 11” Nxb GD:
CVS đã mang lại cho người đọc ”nắng cạn mùa đông” hay ”cơn mưa mùa hạ” khi phân tích thi phẩm TBH?
Tác giả có chú trọng vào trình độ học sinh nghĩa là cố gắng viết ở dạng dễ đọc đối với học sinh trung học nhưng không sa vào chủ nghĩa sơ sài: Viết cho xong. Viết cho có. Viết lấy lệ. Tác giả lướt qua con đường phân tích sáo mòn để cố gắng rút lại cho thi phẩm khá nhiều ”khó hiểu” này một điểm sáng chọn lọc. Đó cũng chính là sự tôn trọng độc giả, hướng họ nhìn nhận, cảm thụ, hiểu tác phẩm với cách mới nhất mặc dù trong cách này vẫn còn đôi chỗ giữ nguyên ý cũ giống các bài trước.
Bài thơ nào cũng có chỗ hay, chỗ chưa hay. TBH có bốn câu đầu hay nhất mà CVS đã chỉ ra được so với các bài khác khen chung.
Phân tích tác phẩm phải đưa tác phẩm về nguyên bản của nó. CVS và NHQ đã đưa vào bốn câu cuối bị cắt bỏ nhưng cả hai đều không giống nhau mà chưa biết bản nào đúng hơn vì các tác giả đưa 4 câu cuối của TBH vào mà không chỉ rõ nguồn. Nếu chúng ta cứ nói trích từ  TTTB để làm vé qua cửa sân bay văn học thì nguồn này không tồn tại, vé này không có giá trị thời hạn.
4 câu cuối của TBH trong bài của CVS:
Hơi thu đầu núi giá lên trăng
                        Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
                        Buồn ở lưng trời nghe đã lại
                        Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.
(Xem phần TBH với nhiều bản sao khác nhau phần gần C ). Không hiểu CVS lấy 4 câu này từ văn bản nào?
Đưa tác phẩm trở về nguyên vẹn của nó để tác phẩm biểu hiện được ”tầm khái quát, sự sâu sắc và tính chân thật” như Gs. Lê Ngọc Trà nhận định, CVS tránh không lặp lại từ ”gân guốc, rắn rỏi” mà các bài viết trên đều sử dụng. Phần vào đề của CVS rõ ràng, hấp dẫn khi nhắc đến Thôi Hiệu để dẫn đến TT. Có thể mượn lời nhận định của Gs. Lê Ngọc Trà để nói về TBH như sau: Tác phẩm văn học luôn sống động nhờ sự tiếp sức của bạn đọc”. Thật như thế, bài viết, bài sáng tác chỉ mới là khởi đầu của một cuộc chạy tiếp sức. Người bình, phân tích và bạn đọc chính là những người đưa tác phẩm đến cửa đường đua. CVS đang ở gần cuối con đường chạy đó?
Cũng giống như những tác giả viết về TBH khác lấy câu cuối của HT – HC: TBH có ”đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” nhưng lại khác ở chỗ CVS dùng để lý giải cái khó hiểu của bài thơ từ nhiều năm nay qua dẫn chứng: ”Báo giáo dục, thời đại và Báo văn nghệ 92, 93 tranh luận” nhưng chưa đi đến đâu và thi phẩm vẫn ”Cứ gây khó hiểu cho thời đại này”.
Đi vào trả lời câu thắc mắc trên, CVS bám vào từ ”ly khách” nhưng không phải là người ”chiến sĩ” như MGL cũng chẳng nhất thiết là người “chinh phu” như TĐS so sánh mà chủ yếu là giá trị ”nội dung thẩm mỹ của hình tượng ly khách”.
Phân tích tác phẩm là tìm ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Bình một tác phẩm là xem xét sự tìm tòi đó, phát hiện đó có đúng hay không? Cái hay, cái đẹp lại nằm trong những hình ảnh, hình tượng và lẩn trốn chung quanh từ ngữ, câu chữ với những mâu thuẫn, những nghịch cảnh… đòi hỏi người phân tích phải có một bản lĩnh. Trong khi đó, cái đúng sai nằm trong văn bản đòi hỏi sự chính xác và người bình phải có một bộ óc phán đoán sáng suốt, tinh tế mới không bị hình tượng đánh lừa.
CVS có bị sự kiện trong TBH đánh lừa không? Tác giả không phủ định ý kiến người khác vì cho rằng:Sự kiện đi vào hồn tác giả để trở thành hình tượng phải qua nhiều ‘bộ lọc’ lắm: nào cảm quan riêng, nào khuôn mẫu riêng, nào chất liệu riêng’‘. Cho nên, khi MGL khư khư khẳng định ”người ra đi” là người ”chiến sĩ” biết ”đường lối cứu nước của VM” thì CVS đồng ý ”người ra đi” là một nam nhi mang chí lớn với LTD nên khó chấp nhận một ”chiến sĩ” từ đâu lù lù chạy vô thi phẩm ”Bởi trong bài thơ, không có bất cứ chi tiết nào đủ làm căn cứ khẳng định đây là chiến sĩ cách mạng”. Nhưng hình ảnh nam nhi trong TBH chưa có mang chí lớn nào hết dù ta có cố gắng mổ xẻ TBH thì kết quả cũng là con số 0. Vì thế mà trong bài viết, CVS cho ”người ra đi” chỉ là một người bình thường đang có một mái nhà ấm êm thì phải ra đi với mục đích ”Đi đâu? Đi để làm gì?” vẫn còn bỏ ngỏ. Khả năng phân tích của tác giả giữa sự giằng co ”tình và chí”, giữa ”bổn phận và khát vọng” giữa sự tương phản bề ngoài, bề trong thật sâu sắc mà các bài viết khác chỉ dừng lại bên ngoài với cái vẻ ”dửng dưng nhưng không vô tình” mà thôi. Sự dằn xéo giữa ”bổn phận và tình nhà” được tác giả phân tích sâu sắc hơn TĐS. Con hơn cha, trò hơn thầy là điều đáng mừng!
Tác phẩm, bản thân nó là một công trình thì người hiểu được nó lại là một công trình vĩ đại hơn. Nó giống như một bản nhạc hay nhờ chất giọng ca sĩ hát hay, hát đúng với sự phối hợp đầy công sức của ban nhạc. Một kịch bản hay cũng nhờ đạo diễn, diễn viên. Riêng đối với thơ, người làm, người bình phải có sự rung động với trái tim yêu thương tha thiết và sự đồng cảm thật tình. Không đứng trên cái nền tảng ấy, bài thơ nhạt nhẽo, mất hương vị còn bài viết lệch lạc nội dung như con chim bay vô hướng!
Hướng đi của CVS là đưa người đọc, nhất là các em học sinh hiểu thấu được: Người đi là người con trai duy nhất trong nhà đang phải dằn lòng để buổi tống biệt không ngập tràn nước mắt của mẹ của chị của em. Người hiểu lòng anh không ai xa lạ chính là tác giả. Hóa ra, người đi dứt áo, người trong lòng rưng rưng  cũng chính là… tác giả!
Tri kỷ là ở chỗ đó. Chuyện đi ở lắm điều phải bàn. Nếu cuộc đời êm xuôi, ta không có ”Tấn trò đời” của Bandăc (Honoré de Balzac). Nếu đời no ấm, ta không có ”Những người khốn khổ” của HuyGo (Victor Hugo). Nếu tình yêu phẳng lặng, ta không có”Romeo-Juliet” của Sechpia (William Shakespeare) và chẳng bao giờ biết đến ”Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Cho nên, khi chiến tranh xảy ra, ở ngoài đời không thể không có “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ, cuộc chia tay trong “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn… Không có cuộc chia ly nào mà không có người tiễn thì trong thơ không thể có người tiễn mà thiếu người đi!
Nếu sự chia ly chỉ là ”lòng tiễn đưa lòng” trong TBH thì đây là điểm mấu chốt để dò lần ra ”Người ấy” trong TBH và ”Người ấy”trong HSHTG là một! Màn hé mở nhưng cũng đã khép lại trong hoàng hôn! CVS đã nhập vào thi phẩm mới bật ra: ‘Không nặng tình sao có thể buồn da diết đến vậy” và CVS cho rằng: Người thiếu cảm  thông chỉ thấy bề ngoài, người tri kỷ thì cứ thấu từ gan ruột mà ra”. Bạn bè không thiếu, tri kỷ khó tìm là vậy. Người biết yêu ta thì chỉ mới là bạn ta mà người hiểu ta mới chính là tri kỷ của ta đó!
“Tống biệt” người thân là sự chia ly đau đớn nhất nhưng ”Tống biệt” một tình yêu mới là sự chia ly xé lòng của bão biển, của trời nghiêng, đất lở, nước tụ, sóng dồi mới có ”tiếng sóng trong lòng”, mới có ”hoàng hôn trong mắt”! Vậy thì sao TT dùng hình ảnh đó để tiễn một người đàn ông như hầu hết các bài viết đã chắc như đinh đóng cột phán xét? Có chắc đó chỉ đơn giản là một người đàn ông trong văn bản không? Còn người ẩn hình trong cuộc chia ly đầy “sóng trong lòng”, ngập “hoàng hôn trong mắt” này ở đâu? Tới đây, mọi phân tích, bình bài TBH coi như bị đảo lộn. Nhưng dù cho nó bị đảo lộn thì cũng giống như dòng nhạc có nốt đảo phách bất ngờ. Chính cái bất ngờ đó, tác phẩm nói chung, TBH nói riêng càng tạo ra sức hấp dẫn lôi cuốn người ta nhảy vào dòng sông ”tống biệt” này để lặn, hụp và bơi trong dòng sông đắng cay da diết, buồn nhớ mênh mông này!
Trở lại sự tháo gỡ của CVS “Người ra đi  là ai?coi như đã rõ ràng: ”Hai người đàn ông, hai người bạn tri kỷ”. Họ chia ly trong hoàn cảnh đã nêu đầu bài với những dằn xé ”đầy ngang trái và ẩn khúc… tiêu biểu cho thời đại ấy, vừa có tính cách muôn thuở”. Đây cũng chỉ là suy đoán khó thuyết phục của CVS cũng như các tác giả khác. Với ”ngang trái, ẩn khúc”, những bài viết khác  ngập ngừng với cách giải quyết ở đoạn cuối (thật ra là gần cuối thôi): “Thà coi… thà coi… thà coi…”.
Ai mới là người có cái quyền quyết định đó? Nếu là mẹ thì lòng mẹ bao la có đời nào không khi từ bỏ con mình chỉ vì nó ương bướng ra đi! Là chị? Nước mắt khóc em với ”dòng lệ sót” kia đâu phải là những giọt nước mắt từ bỏ em mình? Còn cô em gái càng không thể bỏ anh mình trong ”ánh mắt ngây thơ”! (Cô em gái ngây thơ đến mức tặng anh trai chiếc khăn tay – biểu hiện tình yêu? TT nào có ngốc đến thế?). Vậy chỉ còn người con, em, anh ra đi… hy sinh tình nhà mà thôi!?
CVS lý giải cho cái uẩn khúc trên: Hy sinh bổn phận tình nhà hay để tình nhà hy sinh mình? Cái nào cũng đau đớn dằn vặt cả.” ”Những lời nói như đã vỡ ra cùng nước mắt”. Thật ra, chỉ có người bỏ ra đi mới hy sinh tình nhà chứ không mắc mớ gì tình nhà hy sinh người ra đi! Bởi vì chủ thể gây ra hình ảnh “ly khách” chứ không do người nhà. Người làm người chịu không nói gì đây lại không làm, không gây, không tạo mà phải chịu gánh chung mới… đau ơi là đau!
Kết cục, CVS chốt lại: ”Mặc cảm lỗi đạo, bất hiếu là đỉnh điểm của tình cảm biệt ly ở đây” mới tạo ra ”một vẻ đẹp đầy uẩn khúc của ly khách”.
Cuộc đời đầy mâu thuẫn, thơ ca đầy uẩn khúc. Cái bất hạnh vẫn bên cạnh cái may mắn nhỏ nhoi của hạnh phúc. Niềm vui chốc lát không át nỗi buồn đau hằng ngày. Bài viết hay vẫn đó đây có những chỗ lỗi từ, lỗi ý, lỗi câu… CVS không ngoại lệ.
Đoạn thơ đầu hay nhất của TBH qua ngòi bút phân tích của CVS đã trở thành đoạn phân tích khá nhất nếu so sánh với sáu cây bút trên. CVS nhìn thấy ở đó là sự tương xứng giữa hai cặp thơ với hai câu trên là nỗi lòng người tiễn, hai câu dưới dành cho tâm trạng người đi như LTD qua cách gieo vần bằng và hàng loạt từ ”ong…” mang âm hưởng xáo động của ”tiếng sóng”. Sự kiện hay chi tiết nội dung cũng như nghệ thuật tìm ra được nhưng muốn chiếm cảm tình độc giả hoặc chinh phục độc giả, người viết với tay nghề khác nhau sẽ dẫn dắt độc giả đồng tình khác nhau.
Thế nhưng khẩu khí Ta – Người” có đúng là chỉ dành riêng cho hai người đàn ông”, “hai trang nam nhi” như CVS, TĐS và LTD nói không? Cặp từ này từ lâu không còn độc quyền dành riêng cho giới mày râu nữa. Thử tìm trong lĩnh vực thơ ca Việt Nam, chúng ta thấy rõ cặp từ này được sử dụng cho cả hai tuyến nhân vật nam và nữ.
Tú Xương trong bài “Nhớ bạn phương trời”, đã dùng:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung.
Tương tư lọ phải là mưa gió,
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.

Nếu nói là viết cho người bạn sao lại dùng hai chữ “nhớ, tình chung, cùng mộng tưởng, tương tư“. Tú Xương đồng tình luyến ái ư?
Mỹ Lê (quantho.net) trong chùm thơ “Không đề”:
Người ơi! Người ơi!
“Người qua bên ấy sao mà lạnh
Nhịp bước ta về, lạnh mấy mươi!”
Từng giọt mưa xuân rơi lất phất…
Đất trời nhỏ lệ tiễn chân em.
Sân bay chen chúc người qua lại
Mà bóng người xưa biết đâu tìm?

Những lời thơ này mà dùng cho “đực rựa” hay sao chứ?
Với TBH, thử đọc lại: “Đưa người, ta không đưa qua sông”. Nếu không sử dụng từ ‘‘ta” vào đây thì cũng không làm sao bỏ từ Anh, Em … vào được cả. Chỉ có khả năng từ ‘‘tôi’‘ có quyền thay thế nhưng nếu như thế thì từ ”tôi” kia giết mất cái ”ngang tàng”, cái ”khẩu khí” miệng nói lớn mà nội tâm đau đớn của người ra đi! Sự chọn lựa này của TT qua phân tích của CVS là một phát hiện. Từ”người” không viết hoa nhưng ta cũng hiểu rằng TT cố không làm ra đặc biệt nhưng chính vì thế mới giấu đi một người đặc biệt đó thôi!
Ngôn ngữ văn học bao giờ cũng đưa ta đến với những bất ngờ không báo trước. Cặp tương phản trong bốn câu đầu giữa người với cảnh, giữa bề ngoài, bề trong theo lý giải của CVS: ”làm cho nỗi buồn chia phôi” kia là từ ”trong ruột trong tim” trào ra ngoài át hết sự tác động của thiên nhiên ”bởi lòng người quyết định tất cả”. Biết là hay như thế nhưng CVS để rơi từ ”chọi”  trong câu ”Thâm Tâm muốn chọi lại với người xưa” vào đây và cũng bất thình lình, đùng một cái… độc giả… ăn một cục đất (ăn… cục đá thì lổ máu đầu, chết chắc!) trước cái đã rồi mới đến những quan niệm cổ nhân nào đó hay cuộc đưa tiễn Kinh Kha nào đó trên bờ sông Dịch!! TT có muốn “chọi” ai đâu? Sự phân tích này đã đưa CVS lại gần TĐX.
Mặt khác, nếu đi sâu hơn một chút, để ý một chút về hai người chị mà TT đã nâng niu xây dựng trong thi phẩm, CVS sẽ không nỡ lòng cho rằng họ đã luống tuổi”! Cái ”luống tuổi” này làm sao đồng nhất với từ ”sen”  mà TT dùng trong thi phẩm tuy rằng CVS đã khéo chọn từ đó đỡ hơn từ ”tàn tạ” mà các tác giả khác đã ”thảy” xuống cho hai người chị không thương tiếc!
Ta cần hiểu thêm: Sen thường nở vào mùa hạ. Người con gái đẹp nhất vào tuổi dậy thì nhưng quyến rũ nhất vẫn là ở tuổi cuối thời con gái. Sen vào ”mùa hạ sen nở nốt” có nghĩa là lúc sen tung cánh nở rực rỡ giữa đầm cũng đâu khác hơn hình ảnh hai người chị đang ở vào giai đoạn rực rỡ của thời con gái làm sao mà ”luống tuổi” như CVS bảo, làm sao mà ”tàn tạ” như MGL, TĐS, TĐX nói? Phân tích như thế là tàn nhẫn với những đóa Quỳnh mà cũng làm giảm đi sự nâng niu, trân trọng, tự hào, thương yêu tràn ngập của người em trước khi ra đi dành cho hai người chị.
Đó là điều ta cần thiết nghĩ đến TBH nằm trong giá trị nhân đạo.
Văn bản ngôn từ có hai chức năng cơ bản với lời văn tạo nên thế giới con người còn từ ngữ, hình tượng hiện dần qua trí tưởng tượng người đọc. Thế nhưng sự quan niệm, tưởng tượng của các nhà nghiên cứu TBH đã nghiêng về cánh đàn ông mày râu ra đi với oai phong lẫm liệt còn cánh phụ nữ ở lại thì chỉ ”tàn tạ như sen cuối hạ” lập tức. Thật ra, sen cuối hạ cũng đâu có xấu? Đã nói sự tiễn đưa ”không có sông” mà có ”tiếng sóng” thì sen cuối hạ sao không thể là sen đẹp? Trên phương diện tư tưởng này LTD, NHQ có phần dè dặt hơn nên cho qua.
Giá trị thực sự của một tác phẩm chỉ có khi nào nó được trở về nguyên bản của nó. Cuối chặng đường này, CVS đã cùng NHQ đưa bốn câu cuối đã bị cắt vào. NHQ đồng ý với sự cắt xén đó nhưng CVS cho rằng “Hình như đây mới là điểm dừng của lời thơ, đây mới là cái kết mà bài thơ cần phải tìm đến!” nhưng chưa lý giải rõ tại sao? Cổ nhân có nói: ”Con người đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước cuốn trôi?”. Giải quyết vấn đề, chúng ta phải có một thái độ dứt khoát. Con nhện có quyền giăng tơ lơ lửng nhưng con thuyền không thể dừng ở giữa dòng. Trên thế giới chính trị, thái độ trung lập có ở nhiều nước nhưng trong văn học, người làm công việc nghiên cứu, phê bình phải chọn cho mình một lập trường dứt khoát: Đúng hay không đúng? Nên hay không nên? Theo hay không theo?… và bắt buộc phải đưa vào hệ thống lý luận văn học để lý giải: Tại sao?
Cũng như những tác giả khác, CVS khẳnh định người đi, người tiễn là hai người đàn ông với những người trong gia đình như mẹ, chị, em của người bạn ấy cùng đưa tiễn? Những nhân vật này có trong văn bản nhưng ngôn ngữ thơ đã hướng cuộc chia tay đi theo ngã khác với một mức độ tình cảm lên cực điểm mà cuộc chia tay giữa hai người đàn ông bình thường không thể có được sắc thái biểu cảm đó. CVS đã chọn như thế nào khi đi vào phân tích 4 câu đầu và ba câu dưới đây:
   Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
             Chị thà coi như là hạt bụi,
             Em thà coi như hơi rượu say.
CVS cho quyền người đọc hiểu theo hai cách: ”người thân khẩn cầu người nhà” người đi hy sinh bổn phận”. Có nghĩa rằng tác giả vẫn còn lơ lửng nhưng cái ”gỡ gạc” là CVS đã mở cho độc giả một hướng đi tự mình chọn lựa với cái câu rất ý nghĩa: bài thơ chất chứa những uẩn khúc trái ngang này vẫn rất cần những tri âm”. Điều này có nghĩa: Những khám phá, những hiểu biết về TBH chưa có thể kết thúc. Đó là động lực lớn cho những ai muốn viết tiếp khúc nhạc tống biệt ngậm ngùi này.
II. ”Tống biệt hành”: Những vấn đề đã được các nhà nghiên cứu giải quyết và những tồn động ”khó hiểu”
Ta có thể xem xét những vấn đề nào đã được các nhà nghiên cứu, phê bình giải quyết? Phần nào còn tồn động? Giá trị nào được hiểu giống, khác nhau?
1. Những vấn đề đã giải quyết (theo các Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà Nghiên cứu):
a. Về nội dung :
– Ðó là bài thơ hay, độc đáo của sự chia ly dù không phải là đề tài mới.
– Là bài thơ đưa tiễn: Có người đi, người tiễn. Có người đi và người ở lại (mẹ, chị, em ).
– Người tiễn là tác giả (ta) với người bạn (ly khách). Họ là hai người đàn ông.
– Giữa người đi và người tiễn đều mang tâm trạng buồn thương. Giữa người đi, kẻ ở đều có những mâu thuẫn, dằn vặt đau lòng (dửng dưng nhưng không vô tình).
– Người đi có ”chí lớn” nên quyết lòng dứt áo ra đi.
”Sen nở nốt” trong thi phẩm được hiểu như hình ảnh hai người chị ”tàn tạ như sen cuối hạ” ,”luống tuổi”.
– Ðoạn thơ ”Mẹ thà coi như … hơi rượu say” là một “sự hy sinh”.
             b. Về nghệ thuật:
– Thống nhất với thể ”Hành” trong TBH: Một lối thơ cổ của Trung Quốc (TBH được viết theo cấu trúc thơ thất ngôn Ðường luật nhưng ngắt câu tự do).
– Ðoạn thơ đầu gợi lên hơi thơ cổ là đoạn được phân tích, bình nhiều nhất với ”tiếng sóng”, “hoàng hôn”, ”bóng chiều” hay dựng lại hình ảnh Kinh Kha trên sông Dịch hoặc hình ảnh người trượng phu với chí khí nam nhi.
– Các biện pháp tu từ trong TBH  được khai thác triệt để (câu hỏi tu từ: Sao nghe? Sao đầy? Khẩu khí ”Ta – Người”, điệp từ ”thà coi như…”).
– Cách gieo vần “ong”… góp phần làm bài thơ mang sắc thái thơ cổ nhưng mới mẻ về sự cách tân.
2. Những vấn đề tồn động đang còn nghi vấn:
a. Về nội dung:
– Hình ảnh ”người ra đi” là ai?” Có bốn ý kiến:
* Ðó là hình ảnh một người đàn ông, một trang nam nhi, một đại trượng phu kiểu Kinh Kha tráng sĩ (LTD, TÐS, TÐX, CVS).
* Hình ảnh một chiến sĩ cách mạng (MGL).
* Chỉ là một ”ly khách” (NHQ).
* Không nói gì (HT – HC).
– Hình ảnh ”tiếng sóng trong lòng”, ”hoàng hôn trong mắt” ai? Có hai ý kiến:
* Của người tiễn (Trừ CVS).
* Câu trước của người tiễn, câu sau của người ra đi (CVS).
”Người ấy” là ai ? Chỉ có TÐS đi sâu vào ”Người ấy” để khai thác, phân biệt với ”người này” (có chí khí hay không có chí khí).
– Hình ảnh ”sen” có ba ý kiến :
* Hai người chị tàn tạ  (TÐS, MGL, TÐX).
* Hai người chị luống tuổi (CVS).
* Không nói tới (NHQ, LTD, HT – HC).
– Hình ảnh ”em nhỏ” ”chiếc khăn tay”. Có hai ý kiến:
* Chỉ là người em gái (trừ NHQ).
* Là người yêu (NHQ).
”Mẹ thà … hơi rượu say” (tức đoạn cuối – khi cắt xén). Có ba ý kiến:
* Người ra đi dứt áo (LTD, TÐS, MGL).
* Ðứng giữa uẩn khúc, dằn vặt (CVS, TÐX).
* Không đề cập (NHQ).
                       b. Về nghệ thuật: Có hai cách chia tạm thời như sau:
– Phân tích theo cách bổ ngang nghĩa là theo thứ tự từng đoạn (trừ CVS).
– Phân tích theo cách bổ dọc nghĩa là theo ý, không theo thứ tự từng đoạn. (CVS).
               CÁCH CHIA BỐ CỤC GIỐNG VÀ KHÁC
+ Cách phân tích ngang :
     Với Lê Tiến Dũng: Chia hai đoạn như bản HT – HC đã chia (không rõ bản gốc, TT có phân chia như vậy không?).
– Mười câu đầu: Lời người tiễn và người đi với những tứ thơ gợi điển tích xưa.
– Mười hai câu còn lại: Tâm trạng người tiễn khi ly khách đã đi rồi.
Lối phân tích này ngắn gọn làm nổi bật tâm trạng người đi, ở nhưng nhập nhằng, dễ lẫn lộn, dễ bỏ sót những câu, những từ, những ý cần làm rõ như: Người ấy? Ly khách? Sen nở nốt? …
Bài phân tích này viết như dành cho học sinh và người bình dân dễ theo dõi nên đoạn cuối, tác giả chỉ dừng ở ”thà coi như…” nhấn mạnh điệp từ này chỉ ra ”quyết định dứt khoát” của người ra đi và vì vậy chưa lột tả hết cái “bí ẩn” của thi phẩm này.
Kết lại: Theo tác giả: Chí quyết tống biệt là ý chính của bài ”làm bài thơ giàu chất lãng mạn“.
     Với Mã Giang Lân: Chia bốn khổ :
– Một. Khổ đầu bốn câu: “Đưa người… mắt trong”: Tác giả chú trọng vần bằng tạo nên cái xao xuyến, bâng khuâng tiễn đưa và lấy dẫn chứng những bài có nội dung liên quan như: Tiễn bạn của Lý Bạch, tiễn Vi Phúng của Đỗ Phủ để chứng minh TT mượn ngoại cảnh nhưng sự ước lệ của cái cổ qua TT có pha cái thực của cuộc đời.
– Hai. Sáu câu “Đưa người… đừng mong”: Người ra đi có thái độ kiên quyết, dứt khoát.
– Ba. Tám câu tiếp: ”Ta biết… khăn tay”: Tác giả cho rằng đó là cảnh chia ly bịn rịn với hai cảnh chiều hôm trước tàn tạ, hôm nay thương tiếc…
– Bốn. Bốn câu cuối: “Người đi… hơi rượu say”: Kết thúc đột ngột, ngơ ngác tạo nên cảnh người ra đi, kẻ ở lại. Tác giả  lý giải “Mẹ thà coi như…” để nghĩ về ”sự nghiệp người ra đi”.
Như LTD, bài viết chưa thật thuyết phục vì sa vào suy diễn mang tính cách áp đặt (ly khách là người chiến sĩ cách mạng) dù suy diễn vẫn được phép sử dụng trong cách viết bài văn nghị luận.
Kết lại: Theo tác giả: Ý chính là ”nghĩ về sự nghiệp mà người chiến sĩ ra đi quyết tâm”. Tác giả đưa những bài thơ khác của TT có giọng thơ ”bâng khuâng, rắn rỏi, quyết liệt…”. Tác giả còn cho rằng chính nghệ thuật với ”thể Hành, vần bằng… chống sự bào  mòn câu chữ ” mà TBH ”đứng được với thời gian”.
     Với Trần Đăng Xuyền: Bốn đoạn:
– Một. Bốn câu đầu như MGL: Lời người đưa tiễn. Tác giả cho đây là ”tiếng nói thầm” qua câu hỏi cực tả nỗi buồn tê tái của lòng người lúc chia tay. Tác giả chú trọng phân tích giá trị nghệ thuật qua những ngôn từ, hình ảnh hoàng hôn, con sông, tiếng sóng… tạo nên ”giọng thơ rắn rỏi gân guốc thiết tha” chi phối toàn bài.
– Hai. Sáu câu tiếp như MGL: Nét đối lập mà thống nhất trong ”chất phức điệu ”? của ngôn ngữ.
– Ba. Tám câu tiếp như MGL: Nét đối lập mà thống nhất trong con người ly khách.
– Bốn. Bốn câu cuối như MGL: Lời người đưa tiễn ”ngơ ngác không tin” tạo ra nỗi buồn man mác qua ngữ điệu, ý thức của người ra đi dứt áo.
Tác giả cũng chưa làm nổi bật vấn đề nan giải của thi phẩm: Ai ”thà coi như…?”. Tác giả nghiêng về nghệ thuật nhiều hơn nên bốn câu đầu phân tích khá thành công. Bài viết này đòi hỏi người đọc phải động não nặng mới tiếp nhận ”chất phức điệu” mà tác giả đã dày công dàn dựng.
Kết lại: Tác giả đánh giá TBH với những sự đối lập đã tạo nên ”chất lượng thẩm mỹ’‘ cho thi đề quen thuộc và có cách nhìn nhiều chiều sâu sắc về con người. Tiếc thay, cái ”nhiều chiều ” đó cũng mới đi có một nửa.
Với Trần Đình Sử: Như MGL, TĐX chia bốn đoạn :
– Một. Bốn câu đầu: Lời người đưa tiễn với cảm xúc xao xuyến, ngỡ ngàng.
– Hai. Giống hai tác giả trên với sáu câu: Tác giả cho rằng đây là đoạn nói lên nỗi niềm thất vọng của người tiễn ”không tiễn con người mắt đầy hoàng hôn này”.
– Ba. Như hai tác giả trên với tám câu tiếp: Ký ức người tiễn nhớ lại ”tiền sử của ánh mắt hoàng hôn” qua những câu ”Ta biết người buồn hôm trước. Ta biết người buồn sáng hôm nay” với sự tiễn đưa ”đầy tinh thần níu lại”.
– Bốn. Như hai tác giả trên: Hư thực của sự ra đi với chữ ”thà” như ”một nhát dao chặt đứt tình cảm để mà ra đi”.
Bài viết có sự chuẩn bị kỹ hai mặt nội dung, nghệ thuật nhưng nhiều chỗ đi ra ngoài tầm hiểu biết của học sinh khi hướng học sinh cứ đi theo nghệ thuật câu hỏi tu từ (TBH là bài thơ có nhiều từ sửa đổi…) là không nên lắm. Cùng với MGL, TĐS đã đưa hình ảnh hai người chị tàn tạ mà văn bản không nói tới. Ngoại trừ những chi tiết đó thì đây có thể coi là bài viết không có tính cách viết chiếu lệ.
Kết lại: Tác giả kết bài bằng cách lý giải đầu đề TBH rất cổ kính để nói về sự ra đi trong khí thế ”người trượng phu” thời xưa là nội dung. Đồng thời, tác giả giải thích thể ”Hành” có từ thời Hán Ngụy Trung Quốc như MGL mà TT vận dụng tạo ra những câu hỏi tu từ, trùng điệp, thất ngôn, nhịp tự do, gieo vần bằng… để ”gieo vào lòng người ý vị bâng khuâng xốn xang” là nghệ thuật.
     Với Nguyễn Hưng Quốc: Khác với những tác giả trên, NHQ chia năm đoạn mà mỗi đoạn là một lời độc thoại riêng không có hai lời đưa, tiễn chung một đoạn nào.
– Một. Thay vì bốn câu đầu như các tác giả, NHQ chia sáu câu đầu thành đoạn một như HT – HC: “Đưa người… dửng dưng”: Đó là lời người đưa tiễn buồn mênh mang…
– Hai. Bốn câu tiếp: ”Ly khách… đừng mong”: Lời người ra đi đầy hào khí.
– Ba. Tám câu như các tác giả trên: “Ta biết… khăn tay”: Người đưa tiễn biết cái hào khí kia của người đi chỉ là giả vờ.
– Bốn. Bốn câu như các tác giả trên:  “Người đi… rượu cay”: Người đưa tiễn đứng ngơ ngác nhìn người đi…
– Năm (các tác giả trên không có): Đoạn này phục hồi nguyên bản đã bị cắt và NHQ đã đồng ý với sự cắt xén đó sau khi đưa ra những lý giải vì nghệ thuật lạc điệu… ảnh hưởng đến hình ảnh đẹp của bài thơ .
Nếu bài cuả HT – HC là bài viết cực ngắn nhưng lại được tất cả các nhà nghiên cứu sử dụng thì bài bình này của NHQ ngắn thứ hai nhưng mang lại cho độc giả chút hiểu thêm nguyên vẹn thi phẩm TBH. Trong đó, tác giả gợi cho người đọc sự mong mỏi có gì đó như là ”phát hiện” hấp dẫn: Đó chính là hình ảnh ”người yêu” bên cạnh gia đình (mẹ, chị, em) đưa tiễn. Tiếc rằng tác giả chỉ dừng ở chỗ này và nghi vấn ”có” hay “không có” người yêu vẫn treo trước mắt.
Bài viết của NHQ rất đơn giản nên giảm đi giá trị thật sự đáng được có của TBH.
Kết lại: Dạng bài này mang tính chất dùng tham khảo cho tất cả độc giả và ”sự cắt bỏ tài tình” của đoạn cuối TBH theo tác giả cũng ”cần xét lại”.
+                  CÁCH CHIA BỐ CỤC THEO Ý:
Cách này chỉ có CVS. Tác giả chia ba ý như sau:
– Một: ”Người ra đi là ai?”: Tác giả xoay quanh hình tượng thẩm mỹ ”ly khách” với những dấu hỏi và những điều uẩn khúc qua bốn câu đầu và câu 5 đến 18. ”Đưa người… khăn tay”.
– Hai: Tác giả giải quyết ”uẩn khúc” trên bằng khổ thơ đầu (hay hơn cả của TBH). CVS phân tích về cặp từ xưng hô ”Ta – Người” làm nổi bật hai câu trên là nỗi lòng người tiễn so với hai câu dưới là lời người đi. LTD gần với CVS ý này trong khi các tác giả còn lại chỉ cho là lời của một người tiễn mà thôi. Phần lý giải cũng giống về nội dung, nghệ thuật nhưng có thể thấy rằng: Tác giả đã tránh bớt được cách hành văn ”khô như ngói” của kiểu bài nghị luận văn học với dạng phân tích, bình luận ”khó gặm” này rất ”kén” tay nghề và không chịu nhận ”bằng cấp” làm “họ hàng bà con”.
– Ba: Tác giả tập trung lý giải nan đề còn lại ”khó hiểu” gây băn khoăn cho bao nhiêu thời đại mà tác giả đã đưa ra trong phần mở đầu bài viết: ”Mẹ, chị, em… thà coi như… lá bay, hạt bụi, hơi rượu say”. Sau đó chốt lại: ”Mặc cảm bất hiếu lỗi đạo” là ”đỉnh điểm của tình cảnh biệt ly”.
Như NHQ, CVS có đưa ra bốn câu bị cắt của TBH nhưng khác hẳn câu thứ nhất “Hơi thu đầu núi giá lên trăng” so với “Mây thu đầu núi, gió lên trăng” và câu thứ ba: ”Buồn ở lưng trời nghe đã lại….” so với “Ly khách ven trời nghe muốn khóc” của NHQ. Câu cuối cùng có từ “đời”, CVS không viết hoa “Đời” như NHQ. Với 4 câu cuối thêm vào thi phẩm, tác giả không cắt nghĩa dài như NHQ mà chỉ cho rằng dừng như vậy là được.
Bài viết này đòi hỏi độc giả cả học sinh động não để tìm hiểu vấn đề. Tuy có vài ý cần bàn lại nhưng cách giải quyết và hướng đi theo cách chẻ dọc là mới mẻ hơn so với cách bổ ngang theo từng đoạn. Với những thi phẩm có những bí ẩn thì cách tốt nhất là đi theo hướng này và nhiều khi phải đi ngược từ dưới lên và phân tích theo từng câu, từng ý một.
Kết lại: Tác giả tập trung hai ý ”Người ra đi” và ”ba câu cuối bài thơ” với những câu lý giải vượt trội. “TBH rất cần những tri âm” là câu hay nhất để nói về thi phẩm độc đáo này như cắt nghĩa cho sự ”khó hiểu của thời đại”.
Chung: Dễ thấy nhất là thi phẩm TBH của TT không có văn bản chính thức cho các tác giả. Là những người hàng đầu ngành giáo dục nhưng tính khuynh hướng thống nhất văn bản đã không được họ thực hiện. Vậy, TBH của các tác giả được lấy từ nguồn nào? Đây là điểm khiếm khuyết cần phải có hội nghị văn học thống nhất văn bản như nhà nước thống nhất pháp lý. Các giá trị tư tưởng trong TBH gần như chép qua, chép lại, nói tới, nói lui mà không có phát hiện nào mới mẻ cũng chẳng làm thi phẩm TBH sáng giá lên bao nhiêu! Lỗi ở ai?
Nhìn lại, chẳng phải những sự tồn đọng này không thể lý giải trên văn bản dù là lý tính hay cảm tính mà chính là giá trị hiện thực của thi phẩm chưa được hiểu đúng và giá trị ẩn dụ của tác phẩm bị bỏ quên. Sở dĩ ta chưa thể thống nhất được ”Người ra đi là ai?”, ”Người tiễn là ai”? ”Người ở lại có phải người tiễn không?”… vì người phân tích, bình luận đã quên mất ”thời đại, con người và tác phẩm” không thể tách rời. TBH có ”uẩn khúc”? Vậy những uẩn khúc đó do đâu mà có?
Không có chiến tranh thì không có tiễn biệt. Không có chán đời hay đụng chuyện gì thì không thể ra đi. (Nếu đi tự nhiên thì thi phẩm này sẽ không còn uẩn khúc gì nữa cả thì tìm tòi làm gì cho mệt!). Có kẻ sang sông thì làm sao không có người đưa tiễn. Không có mây đen, trời đâu thể đổ mưa. Không có mùa đông làm sao có mùa xuân! Vậy thì nỗi buồn thương mênh mông cuộn vào lòng thành ”tiếng sóng” tiễn bước chân người kia đâu phải chỉ là ”hình tượng ly khách”, ”chinh phu, đại trượng phu” gì, khi ”người đi một nửa hồn tôi chết”!
Chính ý nghĩa của câu ”Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm” mà NHQ cho là sự ”cắt bỏ tài tình” kia là nguyên nhân tạo ra một thi phẩm TBH độc đáo nguyên vẹn hòa hợp đến mức không thể cắt bỏ với ”hình tượng ly khách” đánh lừa ta làm ta cứ bị lẩn quẩn không thoát ra được như con ”gà mù mắc vởn cối xay”.
TBH ”rất cần những tri âm” như CVS nói nhưng liệu khi chạm vào thời đại, đụng vào những luồng tư tưởng phải được chấp hành triệt để bất di, bất dịch liệu có ai cùng TT nâng ly ”tống biệt”? Hay cuối cùng ”tiếc” cho chút ”tri âm” này thì thương lắm cũng chỉ viết:Người ra đi là ai? Người ấy là ai? mà thôi! Vậy thì ”Người ấy” là ai trong bao vây của ”tiếng đời xô động, tiếng hờn câm”?
B: T.T. KH. LÀ AI?
    I. Sự liên quan giữa ”Người” và ”Người ấy” trong TBH của TT và “Người” với “Người ấy” trong bốn bài thơ của T.T. Kh (trích trong VNTNTCTT của Nguyễn Tấn Long, Nxb VH – 2000).
         1. ”Nỗi đau ngày trước” : Cuộc tình của TT với người con gái tên Khánh (Kh): Có thật hay không?
               a. Cuộc tình TT:

%d người thích bài này: